Thứ Bảy, 26 tháng 10, 2013

Đến và trải nghiệm với làng nghề Hà Nội

(Mytour.vn) - Hơn đâu hết đất Thăng Long xưa - Hà Nội nay là nơi tập trung đông đảo các làng nghề truyền thống. Sự phát triển của làng nghề không chỉ có vai trò nâng cao mức sống mà còn là dấu ấn truyền thống văn hóa dân tộc tại mỗi thời kỳ. Đến với mỗi làng nghề Hà Nội, du khách sẽ tìm thấy những giá trị văn hóa truyền thống ẩn chứa trong cảnh quan quen thuộc của vùng đồng bằng Bắc Bộ:

Nơi ấy còn có những nghệ nhân giỏi, được coi là "bảo tàng sống" của mỗi làng, nghe họ kể về quá trình hình thành, phát triển nghề, kinh nghiệm của những người đi trước truyền lại và được tận mắt chứng kiến những đôi bàn tay "vàng" điêu luyện tạo ra những sản phẩm mang đặc trưng của mỗi làng nghề.

 


Hướng dẫn viên chính là những người thợ của làng, sẽ đem đến cho du khách giây phút thú vị qua lời giới thiệu mộc mạc nhưng rất có chiều sâu…Có thể nêu ra rất nhiều làng nghề như thế. Chẳng hạn, nếu chọn đi từ trung tâm Hà Nội, dọc theo Quốc lộ 1A khoảng 20km về hướng Nam, du khách đến với làng thêu Quất Động, làng may Thạch Xá; làng Duyên Thái, Chuyên Mỹ chuyên về nghề sơn mài, khảm trai; Làng Nhân Hiền giỏi nghề điêu khắc đá. Rồi làng Vác làm quạt giấy, lồng chim; Làng Chuông làm nón, làng mây tre đan Phú Vinh với hàng mây xiên được mệnh danh là đỉnh cao của nghệ thuật đan lát Việt Nam; Làng giò chả Ước Lễ; Làng bún Liên Bạt… Các làng nghề liền kề, nối nhau san sát, có khi chỉ cách nhau một cánh đồng lúa hoặc một dòng sông…

Và trải nghiệm

Điều thú vị nhất đối với du khách trong các tour du lịch tại các làng nghề Hà Nội là được trải nghiệm cuộc sống nơi đây. Chẳng hạn đến với làng gốm sứ Bát Tràng, du khách sẽ cảm nhận được sự hòa quyện tuyệt vời giữa nước, lửa và tâm hồn người Việt. Với trên 2.000 lò gốm, Bát Tràng là niềm tự hào về một làng nghề gốm sứ truyền thống.

 


Thời gian trôi qua, sản phẩm của làng đã phát triển và trở nên nổi tiếng cả trong và ngoài nước với chất lượng, màu men, kiểu dáng mang nét đặc trưng của làng nghề cổ bên bờ sông Hồng. Tới tham quan làng gốm cổ Bát Tràng, du khách có thể đi bộ quanh làng hoặc đi trên những chiếc xe trâu kéo. Du khách cũng có thể tự tay nhào đất, nặn, tạo cho mình một sản phẩm nào đó tại khu xưởng của một gia đình làm nghề trong làng. Được chiêm ngưỡng bàn tay khéo léo của những người thợ thủ công tỷ mẩn vuốt từng chi tiết trên bàn xoay gốm, du khách còn được đến tham quan nhiều địa điểm đẹp và thú vị khác như: Đền Mẫu, thờ người con gái Bát Tràng được dân gian suy tôn với mỹ hiệu “Thành Mẫu Bản Dương”, bức tượng Cửu Long đẹp và cao quý…

Đến với làng lụa Vạn Phúc, du khách được nghe giai điệu quen thuộc của những tiếng thoi đưa dệt lụa. Dưới bàn tay tài hoa, khéo léo của những người thợ dệt làng Vạn Phúc dựa trên kỹ thuật truyền thống đã tạo nên nhiều sản phẩm vải lụa độc đáo như vân, sa, nhiễu, gấm, vóc… được khách hàng trong và người nước ưa chuộng.

Đến với Phú Vinh, một làng quê nổi tiếng bao đời với nghề đan lát. Du khách có thể bắt gặp cảnh người già, con trẻ say sưa bên những sản phẩm mây tre đan và luôn nở nụ cười thân thiện đón chào du khách.

Du lịch làng nghề Hà Nội là vậy, song với nhiều người ưa thích sự khám phá, những làng nghề chưa bị các công ty du lịch khai thác triệt để thường là điểm đến lý tưởng. Trước những nét đẹp đơn sơ, những giá trị văn hóa còn nguyên hình, nguyên trạng, mỗi người sẽ có những cảm nhận riêng, những khám riêng cho chính bản thân mình sau mỗi chuyến đi…

 

Đã từng có thời Hà Nội có Hàng Khảm

(Mytour.vn) - Theo những nghiên cứu và sử sách để lại thì được biết ngày xưa Hà Nội có tên phố là phố Hàng Khảm. Theo một công trình nghiên cứu của Giám đốc Sở Lưu trữ và Thư viện Đông Dương André Masson, vào khoảng năm 1820, Hà Nội đã có tên phố Hàng Khảm (Rue des Incrusteurs), tại đó có nhiều nhà vừa sản xuất vừa bán hàng khảm xà cừ, khảm trai…

Khu phố cổ Hà Nội là tên gọi thông thường của một khu vực đô thị có từ lâu đời của Hà Nội nằm ở ngoài hoàng thành Thăng Long. Khu đô thị này tập trung dân cư hoạt động tiểu thủ công nghiệp và buôn bán giao thương, hình thành lên những phố nghề đặc trưng, mang những nét truyền thống riêng biệt của cư dân thành thị, kinh đô. Ngày nay khu phố cổ Hà Nội là điểm đến hấp dẫn cho những ai muốn du lịch khám phá về Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội.

Đầu năm 1885, phố Hàng Khảm trở thành một phố được trải đá dăm khá tốt, rộng từ 16 mét đến 18 mét, các cửa hàng hầu như của người châu Âu. 

Từ khi thực dân Pháp đắp lại con đường nối từ Đồn Thủy (cửa khu Nhượng địa) tới Cửa Nam thành cổ, thành một con đường rải đá, đổ nhựa, dài chừng 1,5km, và họ gọi đường này là phố Hàng Khảm. Nghĩa là, phố Hàng Khảm khi ấy có chiều dài bao gồm phố Tràng Tiền, phố Hàng Khay và phố Tràng Thi ngày nay. Theo công trình nghiên cứu của Giám đốc Sở Lưu trữ và Thư viện Đông Dương André Masson, vào khoảng năm 1820, Hà Nội đã có tên phố Hàng Khảm (Rue des Incrusteurs). Họ đặt tên phố như vậy bởi quãng từ gần trường đúc tiền (thuộc phố Tràng Tiền ngày nay) đến giáp trường thi Hương của Hà Nội (nay thuộc phố Tràng Thi) có nhiều nhà vừa sản xuất vừa bán hàng khảm xà cừ, khảm trai như sập gụ, tủ chè, bàn ghế, tráp, cơi trầu, khay trà... Tuy nhiên, các hàng khảm đều nằm chủ yếu ở đoạn mé nam hồ Hoàn Kiếm.

 


Lùi ngược vài thế kỷ thì thấy, trên đất Thăng Long đã có nhiều thợ thủ công khéo tay; lại có những thợ thủ công gốc Nam Định lên Kinh kỳ lập nghiệp trải qua nhiều đời; đặc biệt, có những thợ thủ công mỹ nghệ rất giỏi nghề khảm trai gốc làng Chuyên Mỹ, Phú Xuyên, trấn Sơn Nam, lên hành nghề ở Thăng Long, rồi định cư ở đất này. Những thợ khảm trai và xà cừ gốc làng Chuyên Mỹ (tên Nôm là làng Chuôn) lên Thăng Long, sống tập trung tại làng Cựu Lâu và họ đã lập tại đây đền thờ Nguyễn Kim - Tổ nghề khảm trai Chuyên Mỹ. Làng Cựu Lâu ở vị trí thuộc khu vực phố Tràng Tiền, Hàng Khay ngày nay. Trải nhiều thời gian hành nghề trên đất Thăng Long - Hà Nội, đến thế kỷ XIX, kỹ nghệ chạm khảm có bước phát triển mạnh khi người Pháp đặt chân tới đất này. Các thợ thủ công đã có sự cạnh tranh khi nền kinh tế hàng hóa đã hình thành tại Hà Nội, khiến nhịp độ phát triển của nghề này càng nhanh. Và tất yếu, một phố nghề chính thức được ra đời, đó là phố Hàng Khảm.

Thời mới lập phố Hàng Khảm, đầu phố là Đồn Thủy, một đồn binh lớn, cuối phố, chỗ Cửa Nam thành Hà Nội, cũng có một trại lính Pháp, chỉ một quãng (tương đương Tràng Tiền - Hàng Khay ngày nay) là có nhà ở và cửa hiệu. Quãng phố này có một cổng lớn mở từ làng Cựu Lâu ra, nên gọi là cổng Cựu Lâu. Cổng này có hai trụ xây khá lớn, trên mỗi trụ có một con sư tử đá, tạo tác đơn giản nhưng oai nghiêm. Phố Hàng Khảm lúc ban đầu như A.Masson mô tả là “một con đường rộng chưa tới 3m đầy những hố nước tù đọng”. Và cũng theo A. Masson, chỉ một năm sau đã trở thành “một con đường rất rộng, chỉ còn thiếu những ngôi nhà kiểu châu Âu. Hai bên phố là những ngôi nhà lá. Hai, ba cửa hiệu của người Tàu, rất sạch và lịch sự, nằm đầu dãy các cửa hàng...”. Chính thời gian mở rộng đường phố đã phải phá bỏ cổng Cựu Lâu. Năm 1885, Đốc lý Hà Nội là Halais cho lập quy hoạch vùng quanh Hồ Gươm với một tiến trình là đến hết năm 1886 phải dỡ tất cả nhà lá và làm thay vào đó những ngôi nhà xây gạch lợp ngói. Có một dấu vết khá thú vị còn sót lại đến đầu thế kỷ XXI là trên “trán” ngôi nhà số 3 Hàng Khay vẫn còn dòng chữ đắp nổi năm xây nhà - 1886. Tuy nhiên, vào chính năm 1886, Tổng trú sứ Paul Bert qua đời, chính quyền thực dân cho cắt một đoạn phố Hàng Khảm, từ cửa ô Tây Long (khu vực Nhà hát Lớn ngày nay) đến ngã tư Hàng Giò, Hàng Thêu (ngã tư Bà Triệu, Lê Thái Tổ ngày nay), đặt tên là phố Paul Bert. Năm 1900, trên tạp chí Revue Indochinoise, ông Dumoutier, một học giả người Pháp, đã mô tả: “Mặt phố Paul Bert đoạn áp hồ (Gươm) toàn là nhà các thợ khảm. Những ngôi nhà này hẹp và thấp, xây bằng gạch, lợp ngói. Mặt trước nhà nào cũng có mái che lợp lá, gian giữa trông ra hồ...”.

 


Có một điều rất lạ là, khi chính quyền thực dân đặt tên phố Paul Bert năm 1886, nhiều người dân Hà Nội đã gọi đoạn trên phố, nơi vốn có trường đúc tiền, là Tràng Tiền, đoạn tiếp đó là Hàng Khay. Và, phần còn lại của phố Hàng Khảm nhưng không có nhà nào làm và bán đồ khảm trai, xà cừ, thì người ta cứ gọi là Trường Thi vì đây vốn là khu vực tổ chức thi Hương ngày xưa, ít lâu sau thì gọi là phố Tràng Thi. Và dần dần tên phố Hàng Khảm cũng lu mờ trong đời sống. Cho đến năm 1945, Tràng Tiền, Hàng Khay, Tràng Thi trở thành tên chính thức của ba phố ấy, và phố Hàng Khảm lùi sâu vào ký ức của Thăng Long - Hà Nội...

 

Không phát triển được, nhiều làng nghề nên tập trung làm du lịch

(Mytour.vn) - Hiện nay có khá nhiều các làng nghề tại Việt Nam đang cố gắng giữ gìn bản sắc làng nghề của quê hương nhưng nó đã không còn phù hợp với thị trường hiện nay nên đã không thể thắng được trong các thị trường khác. Nên hãy tìm những kỷ vật của làng nghề để làm du lịch cho các tour phục vụ làng nghề.

Làng nghề nào không trụ được với cơ chế thị trường mà chỉ là danh tiếng trong lịch sử, trong ký ức thì chỉ nên giới hạn trong việc sưu tập hiện vật phục vụ cho công tác bảo tồn bảo tàng, phục vụ các tour du lịch làng nghề. Đó là vấn đề đặt ra sau Festival Nghề truyền thống Huế năm 2013. 

 


Đó là vấn đề đặt ra sau Festival Nghề truyền thống Huế năm 2013.

Nhiều chuyên gia cho rằng, trong bối cảnh hiện nay, mỗi một địa phương cần xác định cho được nghề gì là đặc trưng, là thế mạnh, là lợi thế so sánh để có định hướng đúng trong bảo tồn và phát triển, không thể bảo tồn phát triển tràn lan. 
Có những làng nghề du lịch chỉ mở ra những cơ hội để bảo tồn chứ không để phát triển thành kinh tế hàng hoá, vì không đủ sức cạnh tranh với sản phẩm của các làng nghề khác cùng chủng loại, nhưng có đẳng cấp cao hơn.

 


Cần xác định rõ du lịch làng nghề là một sản phẩm vì lợi ích của cả cộng đồng. Người dân vùng cầu ngói Thanh Toàn ở thị xã Hương Thủy (TT-Huế) không ai no đủ với nghề làm nông cụ phục vụ du lịch, nhưng với phiên Chợ quê ngày hội, những mặt hàng nông cụ do chính người dân sở tại chế tác đã trở thành một sản phẩm đặc thù, góp phần hình thành thương hiệu du lịch Chợ quê.

Tương tự, lò gốm cổ Phước Tích, ở huyện Phong Điền (TT-Huế) được phục hồi đã góp phần quan trọng tạo dựng thương hiệu tour Hương xưa làng cổ, chứ không thể làm giàu cho cả làng với sản phẩm gốm của vài chàng thợ trẻ cơm đùm gạo bới ra học nghề ở Bát Tràng trở về.
Bởi chính gốm Bát Tràng nhiều lúc cũng phải chao đảo trước sự trỗi dậy của gốm Chu Đậu, trước sự bành trướng của dòng gốm rực rỡ đến từ Cảnh Đức Trấn bên Trung Quốc.

Thực tế những năm qua, dù được đầu tư nhiều trăm triệu đồng để phục hồi nhưng lò gốm cổ Phước Tích cũng chỉ đỏ lửa được vài ngày trong dịp Huế tổ chức Festival. Vì thế, lò gốm cổ Phước Tích nên dừng lại ở nhiệm vụ bảo tồn bảo tàng và phục vụ lễ hội, du lịch, nhiều chuyên gia nhận định.

 


Lỏng lẻo giữa du lịch và làng nghề

Nhiều tour du lịch làng nghề đang giống như là một hiện tượng có tính tự phát. Giữa ngành du lịch và các làng nghề ở Huế ít thấy sự hợp tác tích cực trong chia sẻ trách nhiệm đầu tư và lợi nhuận. Riêng ngành du lịch thiên về khai thác nhiều hơn, đầu tư không đáng kể.

Điều này ở Trung Quốc, ở Thái Lan người ta làm rất bài bản. Nếu qua Vân Nam, một tỉnh nghèo của Trung Quốc, sẽ tận thấy các tour được kết hợp rất chặt chẽ giữa tham quan, ăn ở cho đến mua sắm.
Từ trên xe các hướng dẫn viên đã rất có ý thức trong việc tranh thủ thời gian để giới thiệu về các điểm đến, các phong tục, tập quán, sản phẩm hàng hoá của địa phương. Họ rất khéo léo trong việc kết nối các cơ sở dịch vụ vào lộ trình của mỗi ngày.

Tới Thái Lan, nếu từ Bangkok đi Pataya, và ngược lại, điểm đến của tour, du khách sẽ tham gia ngoài vườn Noong Nooc, trại nuôi cá sấu, trại nuôi rắn, có cửa hàng vàng bạc đá quý. Các điểm đến này đồng thời cũng là một trạm nghỉ đạt chuẩn, có phục vụ nước uống miễn phí, có các khu nhà vệ sinh sạch sẽ; nhân viên phục vụ rất niềm nở, chu đáo; khách đi theo tour khi mua hàng được giảm giá.

Ở Huế chưa có những làng nghề, những trung tâm giới thiệu sản phẩm, bán hàng lưu niệm đạt chuẩn như thế. Và cũng ít thấy những hãng lữ hành, những hướng dẫn viên có trách nhiệm với các đối tác như thế. Đó là do sự liên kết còn lỏng lẻo giữa ngành du lịch và các đối tác, trong đó có làng nghề.

 

Làng cổ Thổ Hà - Bắc Giang

(Mytour.vn) – Vốn dĩ đã đi lên cùng với tiếng là làng nghề truyền thống làm bánh đa nem, mì gạo, nghề gốm. Làng Thổ Hà khuất sau những tiếng xe cộ, phố xá nhộn nhịp. Nằm ở xã Vân Hà, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang. Được coi là mảnh đất “địa linh nhân kiệt," nổi tiếng trong cả nước với nghề làm gốm và quần thể kiến trúc cổ thuần Việt mang đậm dấu ấn của văn hóa đồng bằng Bắc Bộ.

Thổ Hà đang là một địa chỉ quen thuộc, hấp dẫn của khách du lịch trong và ngoài nước, của những người nghiên cứu về kiến trúc và mĩ thuật, của những nghệ sĩ và nghệ nhân về tìm cảm hứng. Chương trình tham quan của khách du lịch có thể là: ngắm cảnh trên bến dưới thuyền của dòng sông Cầu, thăm đình làng, chùa, cổng làng, văn chỉ, xem các cây đa cổ thụ, thăm một số nhà cổ trong làng, xem những ngõ xóm hun hút đẹp với vẻ cổ kính, thăm lò sản xuất gốm, thăm các gia đình sản xuất bánh đa nem và mỳ gạo bằng máy và thủ công, thăm các gia đình nấu rượu gạo. Khi về du khách nên mua vài trăm bánh đa nem, vài cân mỳ gạo, vài lít rượu gạo nếp để làm quà. Nếu du khách thích cảm giác mạnh hãy đến thăm Thổ Hà khi nước sông Cầu ở mức báo động số 3.

 


Trẻ thơ đang ngơ ngác bên làng cổ


Khi du khách đến thăm Thổ Hà có thể đồng thời đến thăm hai địa điểm du lịch nổi tiếng nữa của đất Kinh Bắc, đó là Chùa Bổ Đà và Đền Bà Chúa Kho. Các địa điểm này chỉ cách nhau từ 3 đến 5 km.
Đường đi tới làng: từ Hà Nội theo quốc lộ 1 về hướng Bắc 31 km tới thành phố Bắc Ninh, rẽ trái đi 3 km tới phố Đặng, ngược theo đê sông Cầu 1 km thì tới bến đò Thổ Hà, sang đò là tới làng.

Thổ Hà - Làng nghề vang bóng một thời

 


Chỉ vài phút đi đò là sẽ tới làng


Nghề gốm

Nghề gốm Thổ Hà có từ thế kỉ 12 và là một trong ba trung tâm gốm sứ cổ xưa nhất của người Việt, bên cạnh Phù Lãng và Bát Tràng. Theo gia phả làng nghề và những mẫu hiện vật khảo cổ được tìm thấy thì Thổ Hà là một trong những chiếc nôi của nghề gốm sứ. Thổ Hà đã là một thương cảng gốm tấp nập của vùng Kinh Bắc. Sự hưng thịnh của nghề gốm đã giúp người dân xây dựng một quần thể kiến trúc đình, chùa, văn chỉ, cổng làng, điếm bề thế uy nghi.

Trong làng còn lưu truyền câu chuyện ông tổ nghề gốm làng Thổ Hà là tiến sĩ Đào Trí Tiến. Vào cuối thời Lý (1009 - 1225) ba ông Đào Trí Tiến, Hứa Vĩnh Cảo và Lưu Phong Tú cùng làm quan trong triều và được cử đi sứ Bắc Tống (960 - 1127). Sau khi hoàn tất sứ mệnh, trên đường trở về nước qua Thiều Châu, tỉnh Quảng Đông gặp bão, phải nghỉ lại. Ở đây có lò gốm nổi tiếng, ba ông đến thăm và học được kỹ thuật làm gốm. Về nước Đào Trí Tiến truyền nghề làm hàng gốm sắc đỏ thẫm cho Thổ Hà, Hứa Vĩnh Cảo truyền nghề làm hàng gốm sắc trắng cho Bát Tràng, Lưu Phong Tú truyền nghề làm hàng gốm sắc vàng thẫm cho Phù Lãng. Trước đây lễ dâng hương Tổ nghề gốm (suy tôn cả ba ông) hàng năm được các nhà làm nghề gốm ở Thổ Hà tổ chức luân phiên nhau tại gia đình.

Nghề làm bánh đa nem

Từ bột gạo ngoài sản phẩm chính là bánh đa nem người dân còn sản xuất mỳ gạo và bánh đa to rắc vừng. Mỳ gạo Thổ Hà bó thành bó to 1 kilogam cũng rất nổi tiếng, mỳ nấu dai mà không nát, nghề làm mỳ gạo có trước nghề làm bánh đa nem hiện nay. Bánh đa vừng Thổ Hà còn ngon hơn bánh đa Kế. Mỗi gia đình làm bánh đa nem và mỳ thường chăn nuôi khoảng chục con lợn, mỗi con lợn nặng trên một tạ mới bán, đó là nguồn thu nhập rất lớn. Nhờ nghề làm bánh đa nem dân làng có một cuộc sống xán lạn hơn xưa, phần lớn các gia đình đều có xe máy, tủ lạnh, ti vi, máy giặt, sinh hoạt không khác thành phố là mấy.

Trước đây người làm bánh đa nem phải hì hục quạt lò để tráng bánh bằng phương pháp thủ công, nhưng từ khi có điện, với kỹ thuật tráng bánh mới theo dây chuyền cho năng suất cao đã giảm bớt sự vất vả của con người, năng suất tăng lên gấp ba đến bốn lần. Một gia đình một ngày làm được 250 kg mỳ gạo. Vào những dịp gần tết, bánh đa nem của Thổ Hà làm ra không đủ đáp ứng cho nhu cầu của thị trường. Thời gian bánh bán chạy nhất bắt đầu từ tháng 9 cho đến hết tháng 2 năm sau. Bánh đa nem Thổ Hà mang hương vị thơm man mát, màu trắng ngần vừa thơm, lại vừa dai nên không những có uy tín với khách hàng trong nước mà nhiều chủ đại lý đã đến ký hợp đồng để xuất khẩu sang các nước Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản và rất được những thị trường này ưa chuộng. Tuy nhiên, các hộ dân sản xuất bánh đa nem vẫn còn ở mức nhỏ lẻ, chưa có thương hiệu, bánh đa nem Thổ Hà chưa vào được các siêu thị ở những thành phố lớn.

Ngoài nghề làm bánh đa nem, hiện nay một số gia đình vẫn còn làm nghề nấu rượu, nhưng sản xuất rượu gạo nếp rất ngon và bán với giá cao.

 


Công việc hàng ngày của người dân ngoài lúc làm nghề


Thổ Hà - Quần thể kiến trúc cổ thuần Việt

Thổ Hà còn nổi tiếng với những kiến trúc cổ từ nhà cửa đến cổng làng, khu giếng cổ đều được làm bằng gạch nung và sành đắp nổi không tráng men. Đặc biệt nơi đây còn hiện hữu ngôi chùa cổ kính và ngôi đình bề thế - một kiệt tác của kiến trúc cổ truyền Việt Nam.

 


Chút nắng vàng yếu ớt của ngày tàn


Cổng nằm ở ngay đầu làng phía trước đình, bên tả là hồ nước rộng, bên hữu có cây đa hàng trăm năm tuổi mang đậm dấu ấn văn hóa của cư dân đồng bằng Bắc Bộ. Ngoài ra trong làng vẫn còn lưu giữ được một số ngôi nhà cổ xây dựng cách đây trên 100 năm, tiêu biểu cho các ngôi nhà cổ thuộc đồng bằng Bắc Bộ.

 


Con ngõ nhỏ hẹp cùng với bà cụ đang ngồi hóng mát


Đình Thổ Hà là một ngôi đình nổi tiếng của xứ Kinh Bắc, là bông hoa của nghệ thuật chạm khắc Việt Nam và được xếp hạng là di tích Kiến trúc, Nghệ thuật cấp Quốc gia. Đình được xây dựng vào năm 1692, thời vua Lê Hy Tông và là một công trình kiến trúc quy mô với nghệ thuật điêu khắc độc đáo từng được Viện bảo tàng Viễn Đông Bác Cổ xếp hạng. Ðình thờ thành hoàng làng là Lão Tử và tổ sư nghề gốm Ðào Trí Tiến. Đây là ngôi đình cổ thứ hai ở Bắc Giang (sau đình Lỗ Hạnh được xây dựng năm 1576). Đình Thổ Hà tiêu biểu cho không gian tâm linh, văn hóa của người Việt với nét kiến trúc đặc trưng, các mảng chạm khắc thể hiện đề tài “tứ linh, tứ quý” hoa lá cách điệu, chim thú và con người. Hiện đình còn lưu giữ được chín tấm bia cổ chứa nhiều giá trị nghiên cứu văn hóa, lịch sử.

 


Những đứa trẻ thơ đang nô đùa bên cổng làng cổ


Chùa Thổ Hà có tên là “Đoan Minh Tự” là một di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia. Chùa xây dựng theo kiểu nội công ngoại quốc, có quy mô lớn, bao gồm cổng tam quan, gác chuông và tiền đường. Tam quan chùa nằm sát sau đình. Gác chuông và tiền đường được chạm trổ lộng lẫy với các đề tài rồng mây, hoa lá… Trong chùa có tượng Phật tổ Như Lai to lớn và tượng Phật bà Quan Âm ngồi trên tòa sen. Từ tòa Tam Bảo theo hai dãy hành lang vào tới Động Tiên, là một công trình kiến trúc hiếm có. Động tiên đã ghi lại đầy đủ hình ảnh Thích Ca từ lúc mới sinh ra, lúc trưởng thành và khi lìa bỏ kinh thành vào động tu hành đến đắc đạo. Tiếp theo đi qua sân rộng tới nhà Tổ, nơi đây thờ Sư Tổ và các vị sư đã trụ trì tại chùa.  

 


Gồ gánh những gánh hàng


Văn chỉ làng Thổ Hà được xây dựng vào thế kỷ 17, thờ Khổng Tử, Tứ Phối và 72 vị tiên hiền… Nơi đây được coi là cái nôi của nền học thức Thổ Hà. Đây cũng là địa điểm thu hút khá đông du khách đến tham quan, nhất là vào mùa thi cử, các sĩ tử đến đây thắp hương, lễ bái với tấm lòng thành kính mong được đỗ đạt hiển vinh. Văn chỉ làng Thổ Hà được công nhận là Di tích lịch sử văn hóa ngày 28/2/1999.

 


Vẻ đẹp cổ kính, thuần Việt, sự hồn hậu, mến khách của người dân và lợi thế cách không xa trung tâm thủ đô, làng cổ Thổ Hà đã và đang tạo sức hấp dẫn lớn đối với du khách trong và ngoài nước, với những người nghiên cứu về kiến trúc và mỹ thuật, những nghệ sĩ và nghệ nhân đến tham quan và tìm cảm hứng.

 

4 nơi thú vị nhưng ít người tới ở Đà Nẵng

Thăm quan bảo tàng Chăm, leo lên đỉnh Ngũ Hành Sơn... là những điều mà nhiều du khách có thể thử bên cạnh tắm biển và ăn hải sản ở Đà Nẵng.

Từ lâu, Đã Nẵng đã không còn là điểm đến xa lạ với du khách trong nước và quốc tế. Ở thành phố biển xinh đẹp này có rất nhiều điều thú vị để khám phá, từ những bãi biển trong xanh, nền văn hóa đậm đà bản sắc, những kỳ quan khảo cổ học cho tới những món ăn mang đậm đặc trưng ẩm thực vùng miền hay những khu resort sang trọng. Song, có những điều mà không phải ai tới Đà Nẵng cũng từng trải qua.

 

Khám phá bảo tàng điêu khắc Chăm

 

 

danang-774479-1368259575_600x0.jpg

 

 

Bảo tàng trưng bày các tác phẩm điêu khắc của dân tộc Chăm, những người sinh sống tại miền Trung từ năm 192 tới năm 1835. Bảo tàng được xây dựng bởi người Pháp với nét kiến trúc mang đậm ảnh hưởng của văn hóa Chăm. Nghệ thuật điêu khắc và trang trí đều được thể hiện rõ trong các ngôi đền hay tòa tháp ở khắp khu vực miền trung và những công trình này đều ra đời trong khoảng từ thế kỷ thứ 6 đến thế kỷ thứ 17. Bảo tàng có khoảng 300 tác phẩm điêu khắc khác nhau được trưng bày phía trong và ngoài tòa nhà chính. Giá vé vào thăm bảo tàng là 30.000 đồng.

 

Thăm nhà thờ Lớn Đà Nẵng (Nhà thờ Con Gà)

 

 

danang5-264715-1368259575_600x0.jpg

 

 

Nằm trên đường Trần Phú, trung tâm của thành phố Đà Nẵng, nhà thờ Lớn được xây dựng từ năm 1923 để phục vụ cho những tín đồ công giáo người Pháp cư trú tại Việt Nam khoảng thời gian đó. Người dân địa phương vẫn quen gọi nhà thờ Lớn với tên nhà thờ Con Gà vì trên nóc nhà thờ có biểu tượng con gà màu xám làm bằng hợp kim nhẹ rỗng. Với lối kiến trúc theo kiểu Gothic, đặc trưng là những đường nét cao vút và những vòng cửa quả trám, nhà thờ Lớn Đà Nẵng là một địa điểm thú vị để du khách thăm quan, chụp ảnh.

 

Đi lễ chùa Pháp Lâm

 

 

 

Nét thiết kế nổi bật nhất, đại diện cho văn hóa và lịch sử Đà Nẵng nằm ở kiến trúc các tòa nhà, đặc biệt là những ngôi chùa ở đây. Trong đó, chùa Pháp Lâm lớn nhất thành phố Đà Nẵng là địa điểm bạn nên đến để cảm nhận kiến trúc độc đáo và cầu mong những điểu tốt đẹp cho gia đình, người thân. Ngôi chùa mang lối kiến trúc hoàn toàn Á đông do kiến trúc sư nổi tiếng Đặng Cao Đệ vẽ kiểu. Chánh điện được bố trí trang nghiêm. Tượng Đức Bổn Sư ngồi cao 1,10 m và hai tượng Bồ Tát Quan Thế Âm, Đại Thế Chí được đúc bằng đồng. Chùa mở cửa đón tiếp du khách từ 5h đến 11h30 và từ 13h đến 21h30.

 

Leo núi Ngũ Hành Sơn

 

 

danang2-408075-1368259575_600x0.jpg

 

 

Ngũ Hành Sơn bao gồm 5 ngọn núi nằm ở phía tây nam của Đà Nẵng trên đường đi Hội An. Vua Minh Mạng đã đặt tên mỗi ngọn núi tượng trưng cho các yếu tố trong vũ trụ là Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Sâu trong những ngọn núi này đều có các ngôi đền, thậm chí cả chùa được chạm khắc công phu. Tuy nhiên, núi Thủy Sơn (hay còn gọi là núi Tam Thai) là ngọn núi lớn, cao và đẹp nhất nên thường được nhiều người leo lên đỉnh nhất. Đến đây, bạn có thể khám phá những hang động, những ngôi đền, đường hầm hay đơn giản chỉ đứng trên đỉnh núi để phóng tầm mắt ra xa và cảm nhận vẻ đẹp của thành phố Đà Nẵng.

Theo: Ngôi Sao

 

Phố biển Nha Trang - ngỡ ngàng nét đẹp nên thơ

Được công nhận là một trong những vịnh biển đẹp nhất thế giới với thành phố êm ả nằm bên bờ biển, Nha Trang là trung tâm của đất Khánh Hòa - miền đất được mệnh danh là “xứ trầm, biển yến”.

Được công nhận là một trong những vịnh biển đẹp nhất thế giới với thành phố êm ả nằm bên bờ biển, Nha Trang là trung tâm của đất Khánh Hòa - miền đất được mệnh danh là “xứ trầm, biển yến”.

Đến với du lịch biển Nha Trang du khách sẽ cảm nhận được một cảm giác bình yên hiếm gặp. Có lẽ vì thế mà nhiều người đã ca ngợi Nha Trang là một thiên đường của du lịch. Thiên nhiên đã ưu ái ban tặng cho Nha Trang tất cả những gì mà một vùng duyên hải có thể có: từ những bãi tắm với dải cát trắng mịn trải dài đến những hòn đảo ngoài khơi đẹp ngỡ ngàng, từ những rặng san hô kì ảo dưới lòng đại dương tới những ngôi đền Chăm rêu phong cổ kính trên núi...



Biển Nha Trang làm say đắm lòng người



Nhìn từ trên cao, bãi biển Nha Trang uốn cong như một lưỡi liềm ôm lấy vịnh biển xanh như ngọc. Bên bờ biển, những rặng dừa và phi lao lao xao càng tôn lên vẻ đẹp ngây ngất của biển. Khí hậu ở Nha Trang rất ôn hòa, nắng ấm quanh năm, mỗi năm chỉ có 2 tháng mưa, nên rất thuận lợi cho du lịch. Tour du lịch Nha Trang xanh và đẹp đến ngỡ ngàng trong mùa nắng và sắc biển Nha Trang cũng thẳm xanh theo từng thời khắc trong ngày. Mùa mưa Nha Trang rất ngắn, nhưng hễ ai may mắn được ngắm mưa trên biển cũng mang đến cảm giác lạ kỳ, khó quên…

Chẳng bởi thế mà Nha Trang được xếp vào một trong số những vịnh biển đẹp nhất thế giới với diện tích rộng 507km2, cùng 19 hòn đảo lớn nhỏ, trong đó lớn nhất là đảo Hòn Tre có diện tích 3.250ha; nhỏ nhất là đảo Hòn Nóc có diện tích khoảng 4ha. Vịnh Nha Trang hội tụ khá đầy đủ các yếu tố núi non, sông biển, đầm phá, hải đảo, đồng ruộng, xóm làng … tạo nên một giá trị phong phú và đặc sắc. Vịnh Nha Trang là hình mẫu tự nhiên hiếm có của các hệ thống vịnh, vũng trên thế giới với sự đa dạng sinh học, có hầu hết các hệ sinh thái điển hình của vùng biển nhiệt đới. Dường như thiên nhiên vốn đã quá ưu đãi cho xứ biển xinh xắn này.

 



Không chỉ được biết đến với những cảnh quan đẹp say lòng người, du lịch biển Nha Trang còn nổi tiếng với những nét ẩm thực phong phú. Ẩm thực Nha Trang ngon từ những món ăn dân dã như bún cá, bánh căn, bánh canh, bánh xèo đến các loại hải sản tươi sống, đặc biệt yến sào và nem nướng Ninh Hòa. Trong đó, nói đến các món dân dã Nha Trang còn nổi tiếng qua món bún cá hay bánh căn. Với món bánh canh Nha Trang thì không giống với bất kỳ ở một địa phương nào khác, nước lèo được làm từ chất ngọt của cá cộng với bột bánh canh tạo nên một hương vị khó quên. Không hổ danh là ẩm thực miền biển, hải sản Nha Trang đa dạng và phong phú với rất nhiều loại và vô số những món ăn khác nhau, nổi tiếng có món nhum - còn gọi là cầu gai hay nhím biển ăn sống với cải bẹ xanh…

Phố biển Nha Trang hiền hòa, xinh đẹp, con người Nha Trang chân tình, dễ mến. Người Khánh Hòa có tính cách phóng khoáng mà giản dị hệt như những đặc tính của vùng biển Khánh Hòa kín gió, sóng nhẹ. Tất cả đã tạo nên tính cách chân thành, thân thiện, hiếu khách và cần cù của người dân Khánh Hòa nói chung và người dân Nha Trang nói riêng. Và dường như tất cả những ấn tượng về Nha Trang sẽ không dễ gì mờ phai trong ký ức khi đã rời xa. 

 


Ngắm nhìn biển Nha Trang trong xanh như ngọc

 

Lâm Đồng tiếp nhận Festival di sản UNESCO trong tháng 12 tới

(Mytour.vn) - Festival di sản UNESCO Việt Nam-ASEAN lần thứ nhất (The First Vietnam – ASEAN UNESCO Heritage Festival 2013) sẽ được tổ chức tại Lâm Đồng trong thời gian 5 ngày (từ 27-31/12/2013). Festival hứa hẹn sẽ mang lại nhiều điều thú vị và bổ ích.

Theo đó, tại Lâm Đồng, Festival Di sản UNESCO Việt Nam-ASEAN lần thứ nhất sẽ được triển khai cùng Lễ kỷ niệm 120 năm Đà Lạt hình thành và phát triển; Festival Hoa Đà Lạt lần thứ V. Nhân dịp này, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và UBND tỉnh Lâm Đồng công bố Năm Du lịch Quốc gia Tây Nguyên-Đà Lạt 2014.

 


Festival thu hút sự tham gia của các quốc gia ASEAN và các quốc gia đối tác của ASEAN như: Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc; các tỉnh, thành phố của Việt Nam có di sản UNESCO bao gồm 5 tỉnh Tây Nguyên, 4 tỉnh miền Trung và 8t ỉnh, thành phố phía Bắc; sự hưởng ứng tích cực của các địa phương có di sản đang đệ trình UNESCO.
 
Bên cạnh lễ khai mạc và bế mạc sẽ diễn ra hội thảo quốc tế “Mạng lưới Di sản UNESCO tại Đông Nam Á: Bảo tồn gắn với phát triển bền vững”; Tọa đàm “Hoa Đà Lạt và Du lịch”; Triển lãm Đà Lạt hoa và sinh vật cảnh; Giao lưu trình diễn các di sản văn hóa phi vật thể UNESCO Việt Nam-ASEAN; Carnaval di sản UNESCO ViệtNam - ASEAN-Hoa Đà Lạt…

Vườn Di sản và Nghệ thuật sắp đặt Di sản Văn hóa và Thiên nhiên UNESCO ViệtNam-ASEAN gắn với không gian hoa diễn ra tại Công viên Trần Quốc Toản sẽ là nơi trưng bày 10 tác phẩm nghệ thuật sắp đặt tổng hợp, ghi lại những công trình văn hóa nổi tiếng, đặc biệt của 10 quốc gia ASEAN.

Phó Chủ tịch UBND tỉnh Lâm Đồng Nguyễn Văn Yên và Vụ trưởng Vụ Văn hóa đốingoại và UNESCO (Bộ Ngoại giao) Phạm Cao Phong – đồng Trưởng Ban tổ chức nhấn mạnh: Mục đích của việc tổ chức sự kiện này nhằm tôn vinh và quảng bá ở tầm quốc tế và khu vực về các di sản Việt Nam đã được UNESCO công nhận và di sản Việt Nam đang đệ trình UNESCO công nhận; tạo diễn đàn trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm giữa Việt Nam, các nước ASEAN và các nước đối tác về bảo tồn và phát huy giá trị các di sản; đồng thời góp phần tăng cường mối quan hệ gắn bó, hữu nghị tốt đẹp giữa Việt Nam và các nước ASEAN, các nước đối tác; ôn lại chặng đường vẻ vang 120 năm Đà Lạt hình thành và phát triển, cũng như giới thiệu, quảng bá hình ảnh thiên nhiên, con người và tiềm năng, thế mạnh của các tỉnh Tây Nguyên, Lâm Đồng - Đà Lạt với bạn bè trong nước và quốc tế…

 

Miền Tây - Nét văn hóa ẩm thực hấp dẫn

(Mytour.vn) - Mỗi nơi đều có những nét văn hóa đặc sắc riêng biệt, hầu hết sẽ không nét văn hóa ở đâu giống nhau cả và văn hóa ẩm thực ở Miền Tây sông nước cũng thế. Từ cách bày biện, cách chế biến món ăn đến những nét ăn uống, ngồi ăn đều khác biệt.

Ẩm thực là tiếng dùng khái quát nói về việc ăn và uống. Văn hóa ẩm thực bao gồm cả cách chế biến, bày biện và thưởng thức từng món ăn, thức uống, từ đơn giản, đạm bạc đến cầu kỳ mỹ vị. Chung nhất là vậy, song khi nói đến văn hóa ẩm thực ở một vùng/miền nào đó thì nhất thiết phải nói lên “đặc điểm tình hình” mới có thể nêu được bản sắc văn hóa đặc trưng cụ thể của vùng/miền ấy.

Ở Nam Bộ nói chung và miền Tây nói riêng đâu đâu cũng đất rộng sông dài, nơi nào cũng kinh rạch chằng chịt lại lắm lung, hồ, búng, láng…, không nơi nào không nhung nhúc cá, tôm, rắn, cua, rùa, ếch… đã vậy còn có cả rừng già, rừng thưa, đầy dẫy chim muông, thú to, thú nhỏ. Phía này thì “năm non bảy núi” trập trùng, không biết cơ man nào là “sơn hào”, còn phía nọ thì biển Đông, biển Tây, toàn là “hải vị”!

 

 


Nhưng để có được một kho báu “trên cơm dưới cá”, người Nam Bộ nói chung và người miền Tây nói riêng không thể không năng động sáng tạo trong gieo trồng, đánh bắt và khai thác chế biến. Cho dù “làm chơi ăn thiệt” người miền Tây bao đời nay đã đầu tư không biết bao nhiêu là tim, là óc mới có được thành quả khả quan đầy trí tuệ như ngày hôm nay. Nhờ được kế thừa, phát huy và liên tiếp khám phá, sáng tạo mà văn hóa ẩm thực ở miền Tây ngày càng phong phú, đa dạng. Từ đó, miếng ăn và “thói ăn” của người miền Tây có những cái rất riêng. Nhưng cái riêng ấy không ngoài cái chung của dân tộc Việt Nam nghìn năm văn hiến.

Do đặc điểm địa hình và sinh hoạt kinh tế, văn hóa Nam Bộ nói chung và miền Tây nói riêng đã định hình nền văn minh sông nước, ở đó nguồn lương thực – thực phẩm chính là lúa, cá và rau quả kể cả các loại rau đồng, rau rừng. Từ sự phong phú, dư dật ấy mà trải suốt quá trình khai hoang dựng nghiệp, món ăn, thức uống hàng ngày của người Nam Bộ nói chung và miền Tây nói riêng cho dù trong hoàn cảnh nào, thiếu thốn đạm bạc, hay đầy đủ ngỏa nguê, họ không thể không khám phá và sáng tạo nhiều phương thức nuôi trồng, đánh bắt để chế biến vô số miếng ngon một cách có bài bản từ những đặc sản của địa phương.

 

 


Với phong cách thưởng thức “mùa nào thức nấy” và quan niệm “ăn để mà sống” hầu có đủ dưỡng chất tái tạo sức lao động, họ đã tỏ ra rất sành điệu trong việc phối hợp các yêu cầu cao nhất của miếng ăn: thơm, ngon, bổ, khỏe. Câu nói “ăn được ngủ được là tiên” rất được người Nam Bộ nói chung và miền Tây nói riêng quan tâm, xem trọng, cho nên ngồi vào bàn ăn, khi chủ nhà giới thiệu món nào, dù là cá thịt hay rau quả, kể cả rượu, họ thường nhắc nói: ăn món này bổ xương, hoặc trị suy dinh dưỡng, bổ gan, bổ phổi…; rượu thuốc này giải quyết được bệnh “tê bại” nhức mỏi; tráng dương, bổ thận v.v… Và không quên “động viên” gắp đũa nằm, hoặc dùng muỗng múc (mới được nhiều), cứ tự nhiên, hãy ăn thiệt tình “đừng mắc cỡ”, thậm chí ép ăn! Dùng bữa, thấy khách ăn nhiều, ngon miệng chủ nhà không thể không cảm thấy sung sướng, hài lòng.

Khẩu vị của người Nam Bộ nói chung và miền Tây nói riêng cũng rất khác biệt: gì ra nấy! Mặn thì phải mặn quéo lưỡi (như nước mắm phải nguyên chất và nhiều, chấm mới “dính”; kho quẹt phải kho cho có cát tức có đóng váng muối); ăn cay thì phải gừng già, cũng không thể thiếu ớt, mà ớt thì chọn loại ớt cay xé, hít hà (cắn trái ớt, nhai mà môi không giựt giựt, lỗ tai không nghe kêu “cái rắc”, hoặc chưa chảy nước mắt thì dường như chưa… đã!), ngọt thì ngọt như chè….

Nói đến cay mà không đề cập và nghiên cứu khẩu vị của người Nam Bộ nói chung và miền Tây nói riêng khi ăn tiêu hột hoặc tiêu xay là cả một sự thiếu sót, bởi tiêu đâu chỉ là cay mà còn ngọt! Vì sao “Ví dầu cá lóc nấu canh/Bỏ tiêu cho ngọt bỏ hành cho thơm”? Phải hết sức tinh tế mới hiểu được trọn vẹn bản chất của tiêu. Thật vậy, nếu ta thử nghiệm: nêm hai tô canh (hoặc cá kho) vẫn với các thứ gia vị giống nhau nhưng nếu một trong hai tô canh không “bỏ tiêu” thì nhất định tô ấy sẽ thiếu chất ngọt ngay – cho dù đã có đường, bột ngọt, nhưng vẫn thấy không ngọt đặc biệt như tô có bỏ tiêu! Còn chua thì chua cho nhăn mặt mới “đã thèm”; ngọt (chè) thì phải ngọt ngây, ngọt gắt; béo thì béo ngậy; đắng thì phải đắng như mật (thậm chí ăn cả mật cá, cho là “ngọt”!); còn nóng thì phải “nóng hổi vừa thổi vừa ăn”…

Vì sao khẩu vị người Nam Bộ nói chung và miền Tây nói riêng lại “quyết liệt” như thế? Vấn đề đặt ra chẳng ai giải thích được tại sao ngoại trừ người miền Tây lớp trước hoặc những nhà nghiên cứu về văn hóa ẩm thực vùng đất này. Đó chẳng qua là dấu ấn sắc nét thời khai phá. Thuở ấy, con người ở đây một mặt phải ra sức khống chế thiên nhiên, thường xuyên đương đầu với nhiều loại thú dữ – nói chung là phải đối phó với vô vàn gian nan khổ khó, một mặt phải “tay làm hàm nhai”. Có được “ba hột” no lòng không ai không biết rằng “dẻo thơm một hột đắng cay muôn phần”, cho nên người Nam Bộ nói chung và miền Tây nói riêng không dám hoang phí làm rơi vãi hột cơm, hột gạo, mà đều xem đó như “hột ngọc”. Có cơm ăn thôi là đã mãn nguyện, dám đâu nghĩ tới chuyện vẽ viên cầu kỳ, thịnh soạn! Do thế mà chúng ta không lấy gì làm lạ khi được biết, xưa người ở vùng này có “tài” ăn mặn, rất mặn, đến nỗi “có người trong một bữa ăn, ăn hết hai ống mắm, độ hơn 20 cân, để làm trò vui trong khi đố cuộc nhau”! Còn uống thì, vẫn theo sách Gia Định thành thông chí, ông Trịnh Hoài Đức đã ghi nhận trường hợp ông Nguyễn Văn Thạch nào đó đã từng uống trà Huế (đố cuộc) bằng cách “dùng một cái vò rồng lớn miệng, rót ra bát lớn, uống luôn một hơi, mình ông mặc áo đôi, mồ hôi đổ như nước tắm, giây lát uống hết nước ấy, lấy được tiền cuộc”. Rõ ràng, uống được thật nhiều nước trà nóng sôi ngay khi mới rót ra chén mà không phỏng miệng là cả một sự tài.

Những trường hợp vừa nêu tuy cá biệt nhưng cũng đã nói lên được đặc trưng khẩu vị con người của một vùng đất. Nhưng đó là khẩu vị của ngày trước. Nay tuy đã qua rồi giai đoạn cực kỳ gian nan khổ khó, khẩu vị của họ cũng theo xu thế ăn sang mặc đẹp mà thay đổi: lạt hơn, nhưng những món ăn ghi đậm dấu ấn thời khẩn hoang vẫn hãy còn đó mà đại biểu là cá lóc nướng trui, rắn nướng lèo, mắm kho, mắm sống…

Người Nam Bộ nói chung và miền Tây nói riêng chẳng những không mặc cảm mà còn tự hào, phát huy để nhắc nhớ cội nguồn, tri ân người mở cõi. Nếu những món ăn độc đáo ấy vẫn tồn tại, vẫn hiện diện trong bữa cơm gia đình và cả trong nhà hàng sang trọng thì khẩu vị và cung cách thưởng thức cố hữu của người Nam Bộ nói chung và miền Tây nói riêng vẫn được bảo lưu đến mức không thể không gây ngạc nhiên người mục kích, thí dụ như khi ăn, nhiều người không chỉ chan nước mắm vào cơm mà còn dùng muỗng húp, dường như như thế mới “đủ đô”. Và, đối với những người không quen ăn mặn có những món không cần phải chấm nước mắm, nhưng nếu trên mâm không có chén nước mắm họ sẽ cảm thấy bữa ăn mất ngon, bởi chén nước mắm là cái gì đó rất cần thiết, mà thiếu nó chịu không được! Cho nên phải có, và theo thói quen, họ vẫn đưa miếng đến chấm nhưng đó chỉ là một “động tác giả” vì hoàn toàn chưa dính một chút nước mắm nào, vậy mà ngon – không làm động tác giả như thế họ sẽ cảm thấy miếng ăn bị nhạt nhẻo!

Về nơi ăn, với những bữa cơm thường ngày trong gia đình thì tùy điều kiện không gian căn nhà rộng hay hẹp mà bố trí hợp lý: hoặc trên bàn, hoặc ngay trên sàn nhà. Nếu là bạn thân rủ nhau nhậu chơi thì có thể trải đệm dưới gốc cây trong sân vườn hay ngoài đồng, hay trên xuồng ghe tùy thích. Nhưng khi nhà có đám tiệc thì không xuề xòa mà bày biện cỗ bàn rất nghiêm chỉnh trong tinh thần quý trọng khách mời, tạo nên nét văn hóa rất riêng mà cũng rất chung, hài hòa giữa phong tục truyền thống với đặc điểm văn minh vùng sông nước, hầu từng bước hoàn thiện nền văn hóa ẩm thực độc đáo. Độc đáo vì đã biết tận dụng, khai thác và chế biến “của trời cho” một cách kịp thời theo “đơn vị tính” thời gian là “tháng”, “ngày” thậm chí “giờ”. Thật đúng như thế nếu ai đó ở vùng đầu nguồn, có việc phải đi xa nhằm vào tháng cá mờm hoặc cá linh non xuất hiện thì đành phải chịu nhịn, vì sau đó chừng một tháng cá mờm đã lớn thành cá cơm, cá linh non cũng thế. Hoặc trong một năm mới có được mấy ngày “cá ra” (nước trên đồng giựt cạn, cá rút xuống kinh, mương để ra sông), nếu người sống nghề đánh bắt thủy sản không chuẩn bị kịp mọi việc để chặn bắt cá thì xem như năm ấy bị thất thu nguồn lợi lớn. Rau trái cũng không khác. Đặc biệt đối với rau, như bông điên điển, rau dừa, rau muống… nếu hái muộn, từ lúc trời đã trưa nắng đến chiều sẽ không giòn, mất ngon, chức năng kích thích thèm ăn, ngăn chống lão hóa của rau do đó cũng bị giảm rất đáng kể.

 

Điểm đến lý thú với bản sắc văn hóa độc đáo tại Hòa Bình

(Mytour.vn) - Là vùng đất cửa ngõ phía Tây Bắc của Thủ đô Hà Nội - tỉnh Hòa Bình được coi là cái nôi của người Mường cổ, với nền văn hóa Hòa Bình đặc sắc, nơi quy tụ gần 200 di tích lịch sử  danh lam thắng cảnh, trong đó có 64 di tích đã được xếp hạng cấp tỉnh và quốc gia.

Địa hình đồi núi trùng điệp với các động Thác Bờ, Hang Rết, động Hoa Tiên, vùng rừng nhiệt đới nguyên sinh Pù Noọc mở ra những tuyến du lịch mạo hiểm leo núi, đi bộ, săn bắn, tắm suối. Sức người và thiên nhiên đã tạo cho Hòa Bình một vùng hồ sông Ðà thơ mộng cho phép phát triển du lịch vùng lòng hồ và ven hồ có đầy đủ vịnh, đảo và bán đảo mà ở đó động thực vật quý hiếm được bảo tồn. Thấp thoáng các bản Mường, bản Dao, bản Tày rải rác ven hồ, ven thung lũng tạo nên bức tranh sơn thủy hữu tình.

 


Cùng với đó là trên 50 bản, làng du lịch-văn hóa, đều là những nơi được đánh giá cao về tiềm năng phát triển du lịch cộng đồng. Ông Bùi Ngọc Lâm, Giám đốc Sở Văn hóa-Thể thao và Du lịch cho rằng: Đây là lợi thế để du lịch Hòa Bình hấp dẫn du khách thập phương.

Đến với Hòa Bình, du khách sẽ có những trải nghiệm thú vị về nếp sinh hoạt, tính thân thiện và cuộc sống mộc mạc của người dân bản địa. Hòa Bình hấp dẫn du khách bởi nét nguyên sơ của nếp nhà sàn, đức tính giản dị và hiền hòa của con người nơi đây.

 


Đặc biệt, mới đây tạp chí Business Insider đã bình chọn Mai Châu (tỉnh Hòa Bình) là một trong mười địa danh hấp dẫn trên thế giới dành cho tour du lịch văn hóa địa phương: “Chỉ mất khoảng 3 giờ đi ôtô từ Hà Nội, Mai Châu là một điểm du lịch miền núi với những ngôi nhà sàn truyền thống nằm rải rác. Dân cư nơi đây chủ yếu là người Thái trắng sinh sống. Cách tốt nhất để bạn trải nghiệm văn hóa địa phương ở đây là tham gia loại hình du lịch homestay, nghĩa là sống và tham gia sinh hoạt cùng với những gia đình địa phương.”

Cùng với người Mường, người Thái, Tày, Dao, Mông… trong tỉnh sống xen kẽ, hòa hợp với nhau đã tạo nên sự phong phú và đặc sắc của các giá trị văn hóa. Cách trung tâm thành phố Hòa Bình 12km, bản Giang Mỗ, xã Bình Thanh (Cao Phong) là điểm đến lý tưởng của nhiều du khách nước ngoài.

Điểm nổi bật tạo nên sức hút đặc biệt cho bản Giang Mỗ là những nếp nhà sàn dân tộc Mường, sau bao nhiêu năm tháng vẫn giữ được vẹn nguyên nét mộc mạc với gần 100 ngôi nhà sàn còn giữ nguyên bản từ nhà cửa đến nếp sinh hoạt, hệ thống dẫn nước, cối giã gạo, cung, nỏ săn bắn, ruộng bậc thang cùng phương thức làm ruộng truyền thống, các lễ hội, phong tục tập quán Mường được người dân tái hiện từ thực tế cuộc sống.

Xa hơn, du khách có thể về với bản Cú, xã Tử Nê (Tân Lạc), bản Thấu, xã Lạc Sỹ (Yên Thủy)… Du lịch cộng đồng được đưa vào khai thác hơn 10 năm nay, đã đem lại lợi ích thiết thực cho người dân. Từ phát triển kinh tế, người dân đã ý thức được giữ gìn nếp sống hàng ngày, bản sắc văn hóa và đó là một yếu tố tạo nên thành công cho du lịch cộng đồng.

Đó là nét riêng của ngành du lịch Hòa Bình đang hướng đến khai thác, đầu tư cũng là định hướng xác đáng đã được nhấn mạnh trong Nghị quyết số 11/NQ-TU về phát triển du lịch tỉnh Hòa Bình giai đoạn 2007-2010, định hướng đến năm 2015: cần gắn phát triển du lịch với việc giữ gìn, bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc và đặc thù văn hóa địa phương.

 


Ngoài ra, giá trị văn hóa được ẩn chứa trong các phong tục, tập quán, lễ hội. Các lễ hội văn hóa đậm đà bản sắc như: lễ hội Khai hạ Mường Bi (Tân Lạc), lễ hội chùa Tiên (Lạc Thủy), lễ hội chùa Hang (Yên Thủy), lễ mừng cơm mới của đồng bào dân tộc Mường, lễ hội Cấp sắc của đồng bào dân tộc Dao... được tổ chức đều đặn hàng năm để cầu cho mưa thuận, gió hòa, mùa màng tốt tươi, hướng về nguồn cội đã làm thỏa mãn những du khách đam mê khám phá các giá trị cổ truyền. Cùng với các lễ hội, nhiều di tích văn hóa tín ngưỡng được các cấp bảo tồn và phát huy với nhiều hình thức: sưu tầm các di vật, cổ vật trên địa bàn; khơi dậy các sản phẩm du lịch độc đáo nhạc cụ cồng chiêng của người Mường.

Đặc biệt, cái nôi văn hóa của người Việt cổ giờ đây được in đậm trong các quần thể di tích có giá trị khảo cổ như hang Ma (Tân Lạc), hang Giỗ, hang xóm Trại (Lạc Sơn), hang Chổ (Lương Sơn)… Nhờ phát huy được các giá trị văn hóa đó, Hòa Bình ngày càng thu hút nhiều du khách trong và ngoài nước. Riêng 6 tháng đầu năm, toàn tỉnh đã đón khoảng 885.000 lượt khách du lịch, trong đó có 150.000 lượt khách quốc tế, 735.000 lượt khách nội địa tăng 20% so với cùng kỳ của năm 2012.

Hòa Bình được đánh giá là một trong những tỉnh có tiềm năng lớn về du lịch, tuy nhiên tỉnh vẫn chưa khai thác được thế mạnh đó. Hiện nay, hồ Hòa Bình ví như một vịnh Hạ Long trên cạn tuy đã đưa vào tuyến du lịch trọng điểm Quốc gia nhưng chưa thu hút được đầu tư. Khách du lịch lòng hồ Hòa Bình phần lớn là du lịch tâm linh đền Bờ, thăm một vài hang động, đảo dừa, đảo cối xay gió, tỉnh chưa có đầu tư tương xứng tạo điểm nhấn ở vùng đất sơn thủy hữu tình này. Để tạo ra một sản phẩm du lịch đặc thù hấp dẫn du khách cần có sự vào cuộc của các cấp, ngành, địa phương. Thực tế này đòi hỏi tỉnh Hòa Bình phải xây dựng chương trình hành động về du lịch thiết thực hơn, đẩy mạnh quảng bá rộng rãi những giá trị độc đáo của nền văn hóa cổ truyền.