Thứ Ba, 22 tháng 10, 2013

Ngắm nhìn Quê lụa Tân Châu - An Giang

 

Nhắc đến lụa, người ta thường nói đến lụa Hà Đông ít ai biết được ở An Giang cũng có một làng cổ nổi tiếng với những dải lụa đẹp.

Từ xưa, Tân Châu đã nổi tiếng với nghề ươm tơ dệt lụa. Đây cũng chính là nơi sáng tạo nên loại lụa Mỹ A nổi tiếng một thời. Theo những người lớn tuổi kể lại thì ngày xưa, chị em phụ nữ mà có được một bộ quần áo may bằng lãnh Mỹ A thì thật là sang trọng. Bộ quần áo ấy chỉ dành để mặc vào những ngày lễ, tết. So với lãnh Mỹ A, vải "xá xị Xiêm" - một loại lụa Thái Lan nổi tiếng thời đó - cũng không sánh bằng.


 


Bên nàng mặc lãnh Mỹ A


Đưa đò sang chợ, tưởng xa hóa gần.

Câu ca truyền miệng từ xưa quanh các bến đò ngang ở đất Tân Châu này chắc hẳn nhiều người còn nhớ. Đó không chỉ là lời tán tỉnh cô gái đẹp của anh lái đò, mà câu ca còn hàm ý kết luận rằng "người đẹp nhờ lụa"... Mà phải là lụa Tân Châu mới càng làm tôn thêm nét duyên dáng, đến nỗi chàng lái đò cảm thấy dòng sông như ngắn lại khi có cô gái mặc lãnh Mỹ A ngồi cạnh.

Khi nghiên cứu về làng nghề của quê hương, nhà văn Mai Văn Tạo mới biết rằng, có một thời, lụa Tân Châu từng có mặt ở Singapor, Philippin và cả quốc gia nổi tiếng về nghề dệt vải là Ấn Độ, bởi nó được giới thượng lưu và hoàng tộc thời đó rất yêu thích.

Sáng trăng trải chiếu hai hàng

Bên anh đọc sách, bên nàng quay tơ

Quay tơ phải giữ mối tơ

Dẫu năm bảy mối cũng chờ mối anh...


Khung cảnh thanh bình trong bài thơ trên là hình ảnh thời kỳ đầu của nghề ươm tơ, dệt lụa ở Tân Châu. Thời đó, người ta dệt lụa theo khung dệt cổ. Khổ vải dệt ra chỉ rộng khoảng bốn tấc, khi may quần áo phải nối vải nên không đẹp. Dần dần, làng nghề tạo ra khung dệt khổ 8 tấc, rồi 9 tấc, đồng thời nghiên cứu làm cho lụa đẹp hơn, bền hơn với nhiều hoa văn tinh xảo như: cẩm tự, hoa dâu, hoa cúc, mặt võng, mặt đệm v.v...

Độc đáo nhất có lẽ là kỹ thuật nhuộm lụa từ trái mặc nưa, một kỹ thuật làm cho lụa Tân Châu đen tuyền, óng ả, quần áo mặc đến rách mà vải vẫn không bị xuống màu. Đây chính là phát kiến của người làng nghề xưa, nền tảng khiến cho lụa Tân Châu nổi tiếng một thời. Nhưng cho đến bây giờ, không ai biết chính xác người nào đã tìm ra cách nhuộm này. Chỉ biết rằng hồi đó, mỗi năm, người làng nghề phải qua Campuchia mua hàng trăm tấn trái mặc nưa mới đủ dùng. Sau này, người Việt trồng thử, thấy được nên trồng nhiều đến ngày nay.

Theo tư liệu thì trước năm 1945, ở Tân Châu đã có "nhà tằm" lớn của tư nhân, thu hút nhiều thợ ươm tơ, thợ dệt, thợ nhuộm vào làm. Rồi từ "nhà tằm" này, những người thợ học hỏi, trao đổi kinh nghiệm tay nghề cho nhau. Đến thập niên 1960 thì ở Tân Châu đã có hàng trăm nhà dệt quy mô lớn nhỏ khác nhau. Nhiều nhà dệt tiếng tăm còn mãi đến bây giờ như Đỗ Phước Hòa, Trần Văn Tôn, Trịnh Thế Nhân, Trần Văn Nho v.v... Một số con cháu của họ vẫn còn nối nghiệp gia đình đến ngày nay.

Lụa Tân Châu nổi tiếng nhờ dệt bằng tơ tằm. Để có những cuộn tơ vàng óng ả, người Tân Châu đã phải trải qua những tháng ngày trồng dâu nuôi tằm vất vả quanh năm. Có những năm, ruộng dâu trồng đến hơn 10.000 hecta, trải dài từ Tân Châu, Chợ Mới đến tận biên giới Campuchia, mới đủ cung cấp cho tằm ăn.

Nghề nào cũng vất vả, cũng phải chịu gian nan, khổ cực mới gặt hái được thành công. Với người Tân Châu, nghề trồng dâu nuôi tằm cũng khá vất vả. Từng có câu tục ngữ : "Làm ruộng ăn cơm nằm, làm tằm ăn cơm đứng". Tằm phải được chăm sóc suốt ngày đêm, nhất là trong giai đoạn đưa tằm lên bủa giăng tơ. Tuy nhiên, đây cũng là giai đoạn vui nhất của làng nghề, cũng giống như ngày nông dân ra đồng thu hoạch vụ mùa.
Sau những bước thăng trầm, làng nghề tơ lụa Tân Châu nay lại được vực dậy, con tằm lại tiếp tục nhả tơ. Ruộng dâu, vườn mặc nưa sống lại. Không những vậy, làng nghề phải nhập thêm kén ươm từ Bảo Lộc, Lâm Đồng về mới đủ cung cấp cho nhu cầu sản xuất. Tuy nhiên, nếu đem so sánh với các mặt hàng vải vóc hiện đại và đa dạng ngày nay, tơ lụa Tân Châu tỏ ra là một loại hàng khiêm tốn. Nó kén chọn người tiêu dùng, hoặc chủ yếu đáp ứng cho các trào lưu.

Đối với các nhà thiết kế thời trang chuyên nghiệp thì lụa Tân Châu là một sản phẩm thuần Việt, đậm đà tính dân tộc và là niềm tự hào của người Việt nếu chúng ta biết sử dụng chính lụa Việt Nam để tô đẹp thêm nét duyên dáng của phụ nữ Việt Nam.


Nhà thiết kế thời trang Võ Việt Chung đã chọn tơ lụa Tân Châu làm chất liệu chính trong nhiều chương trình giới thiệu thời trang và anh đã thành công ngoài sự mong đợi. Chính sự mềm mại và hoa văn phong phú, độc đáo của lụa Tân Châu đã gợi nên những ý tưởng sáng tạo trong anh. Những mẫu thiết kế bằng chất liệu lụa Tân Châu của anh đã được giới thiệu trong đợt Liên hoan Du lịch ĐBSCL tại An Giang.


Ngày nay, lụa Tân Châu đang từng bước tìm lại sức sống xưa của mình. So với thập niên 50 - 60 thì sản lượng còn kém xa, nhưng chất lượng tơ lụa thì đã ngang tầm với những quốc gia có ngành tơ lụa phát triển. Những sản phẩm bền và đẹp như hiện nay là kết quả của cả một quá trình người làng nghề không ngừng học hỏi, đổi mới công nghệ và luôn tìm ý tưởng sáng tạo nên những mẫu mã mới, đáp ứng nhu cầu của khách hàng.

 

Bàn tay tài hoa của làng Sừng

Sau nhiều năm dài mai một, giờ đây nhờ vào sự quan tâm và chính sách mở cửa của đất nước mà làng nghề truyền thống chế tác thủ công mỹ nghệ từ sừng trâu đã được tái hiện như xưa. với những tay nghề vốn có từ lâu, làng nghề ngày càng được khẳng định.

Không vì bị lãng quên sau nhiều năm mà làng nghề mất đi cái vốn có của mình, giờ đây làng nghề đang dần khôi phục lại. Làng Sừng là tên gọi nôm na của làng Thụy Ứng (huyện Thường Tín - Hà Nội). Bước vào làng, du khách ngỡ như lạc vào một thị trấn với những ngôi nhà cao tầng hiện đại, đường đi trải nhựa thẳng tắp. Tuy vậy, những ngôi nhà dọc theo trục đường chính của làng vẫn thể hiện nét đặc trưng truyền thống của làng nghề này, với những cặp sừng bò vươn lên ngạo nghễ, những con rồng, phượng, rùa, khung tranh ảnh, lược và vô số sản phẩm mỹ nghệ khác được trưng bày trong tủ kính. 

 

Tất cả các sản phẩm này đều được làm từ sừng trâu bò. Người làng Sừng có nghề làm sừng từ hơn 400 năm qua. Theo các cụ già ở đây kể lại thì vào khoảng thế kỷ 16, cụ tổ nghề là một người thợ thủ công của làng. Thấy dân nghèo quá, cụ lặn lội phương xa học được nghề làm lược sừng, rồi về truyền dạy lại kỹ thuật cho dân làng. Nhờ có nghề, cuộc sống của người dân trở nên no ấm.

 

 
 Trong giai đoạn từ những năm 1950 đến 1970, nguồn lược sừng chủ yếu cung cấp cho người dân các tỉnh miền bắc đều là sản phẩm của làng Sừng. Thời bao cấp, trâu bò được xem là nguồn sức kéo chủ yếu, giết mổ phải xin phép, nên làng không kiếm đâu ra đủ khối lượng sừng để làm lược. Mãi đến năm 1986, khi đất nước chuyển sang thực hiện chính sách mở cửa kinh tế, trâu bò trở thành hàng hóa, giết mổ tự do, nghề sừng tưởng đã mai một lại dần dần hồi sinh. Dân làng không chỉ quay lại nghề làm lược mà còn sáng tạo ra nhiều sản phẩm mới phù hợp với đời sống hiện đại.

 

 Vốn là nghề phụ, nhưng những sản phẩm từ sừng đã mang lại cho dân làng nguồn thu nhập chính, cao hơn hẳn nguồn thu từ nông nghiệp. Hiện nay làng có gần 800 hộ với hơn 3.000 nhân khẩu. Theo trưởng thôn Nguyễn Tuấn Anh thì làng có đến gần 90% số hộ làm nghề sừng. Anh kể: "Làng nghề được chính thức công nhận vào tháng bảy năm 2008. Và có thể nói, ở làng Sừng chúng tôi, ai nên khôn đều phải qua nghề làm lược".

 Trong ngôi nhà nhỏ bên đường, một ông già vóc người nhỏ thó đang say mê làm tác phẩm Long phượng kỳ duyên cao hơn 1,5m. Ở tuổi 70, bác Nguyễn Văn Kiến hiện là một trong những nghệ nhân giàu kinh nghiệm nhất làng. Bác nổi tiếng với những tác phẩm sừng mỹ nghệ như Tam long hý thủy; Lưỡng long chầu nguyệt... Ðể làm hoàn thiện một con rồng phải qua mấy chục công đoạn, từ cán ép, cưa, mài, đục, uốn... Một số tác phẩm, bác Kiến phải cặm cụi cả tháng mới làm xong, mặc dù vậy giá bán chỉ khoảng hai triệu đồng.

 Bác Kiến làm nghề từ năm 13 tuổi, bắt đầu với việc làm lược sừng. Bước sang tuổi 25, chàng thanh niên ấy chuyển sang làm những sản phẩm mỹ nghệ cao cấp, đòi hỏi sự tinh xảo cao. Bác Kiến bảo: "Làm sừng rất khó, bởi mỗi chiếc sừng đều khác nhau, người thợ phải tùy theo từng chiếc sừng mà hơ, ép, cắt, uốn... Có cái sừng phải uốn cả chục lần, nhưng khó nhất là lúc tạo dáng sản phẩm".

 Hơn 60 năm làm nghề, bác Kiến nay đã là một nghệ nhân bậc thầy, có thể làm tới hơn 80 mẫu sản phẩm khác nhau. Rất nhiều tác phẩm của bác đã được trưng bày tại các hội chợ gần xa và luôn được khách hàng ưa chuộng. Bác đã truyền những bí quyết của nghề cho các con cháu. Chính sự tỉ mỉ, đi sâu vào các chi tiết tinh xảo mà bác đã góp phần tạo nên nét độc đáo riêng cho sản phẩm làng nghề. "Tôi sẽ còn theo nghề tổ này cho đến lúc không còn sức nữa mới thôi"- Bác tâm sự.

Trong khi những nghệ nhân lão thành như bác Kiến say mê với các tác phẩm mỹ nghệ cao cấp, lớp trẻ trong làng chuyển hướng sang sản xuất hàng tiêu dùng với quy mô lớn. Anh Trần Văn Thùy, 39 tuổi, là chủ một xưởng làm sừng với mười sáu lao động. Hằng ngày, họ cần mẫn làm từ bảy giờ sáng tới năm giờ chiều. Anh Thùy cho biết: "Tất cả các bộ phận của con trâu từ sừng, da, móng đều có thể sử dụng được, thậm chí lông đuôi trâu dùng để chế bàn chải". Giới thiệu về các công đoạn chế tác sản phẩm từ sừng trâu, anh cho hay: Ðầu tiên người thợ rút cái lõi cứng trong sừng trâu ra, sau đó họ hơ lửa hoặc luộc sừng trong dầu để làm mềm. Họ dùng máy ép thủy lực ép sừng cho bẹp ra, rồi cắt thành những mảnh nhỏ gọi là phôi. Từ phôi họ chế tác ra lược, thìa, bát đĩa, móc khóa, trâm cài tóc và các sản phẩm khác. Các sản phẩm thô này được đánh bóng và sẽ có mầu đen bóng tự nhiên ở cuối công đoạn. Sừng bò cũng được chế biến tương tự sừng trâu, nhưng với mầu vàng đặc trưng. Sừng bò chủ yếu được dùng làm sản phẩm mỹ nghệ. Giá cả sản phẩm cũng đa dạng, từ thứ rẻ nhất như cái lược 5.000 đồng, đến một bộ đầu bò châu Phi đã qua xử lý được bán với giá bảy triệu đồng (khoảng 416 USD).

Anh Thùy đã đầu tư hơn 50 triệu đồng mua sắm máy móc. Hiện mỗi người thợ của anh có thu nhập từ 1,2 đến 2 triệu đồng/tháng. Anh kể: "Do làng Sừng là đầu mối, nên dân làng đi khắp các tỉnh thành trong cả nước mua sừng, xương, da trâu bò về đây. Mỗi ngày làng nhập vào khoảng 50 tấn sừng, xương và da trâu bò. Sau khi sơ chế, một phần sừng và xương được bán cho các làng nghề thủ công khác, như làng nghề tiện Nhị Khê ở gần đây, và một làng chế tác sừng ở Nam Ðịnh".

Các sản phẩm của làng nghề sừng Thụy Ứng hiện được bán khắp nơi trong nước, nhất là trong các siêu thị, các cửa hàng mỹ nghệ lưu niệm tại các thành phố lớn như Hà Nội và TP Hồ Chí Minh. Ðặc biệt, các mặt hàng này hiện đang có thế mạnh trong xuất khẩu sang các nước Trung Quốc, Thái-lan, Anh, Mỹ... và là sản phẩm du lịch độc đáo của Việt Nam. Hiện nay, sản phẩm nổi tiếng nhất của làng Sừng là những bộ đầu bò châu Phi với cặp sừng vút cong ngạo nghễ, rất được khách hàng châu Á như Nhật Bản, Hàn Quốc... ưa chuộng, do được chế tác hoàn toàn thủ công. Các nghệ nhân làng Sừng đã chinh phục được thị trường Trung Quốc, hằng năm xuất khẩu lược sừng và nhiều sản phẩm khác với số lượng lớn. Khách phương Tây cũng thường đến đây đặt hàng. Ðể chinh phục những thị trường hiện đại và khó tính này, người làng Sừng đã dựng mẫu trên máy vi tính. Những nỗ lực của họ đã được đền đáp. Anh Thùy cho biết: "Có nhiều khách phương Tây đến đặt làm một sản phẩm đơn chiếc như mặt khóa thắt lưng hay báng súng săn... Tất cả các nguyện vọng đó đều được đáp ứng, bởi chúng tôi luôn nghĩ rằng mình phải làm sao để thế giới biết về sản phẩm làng nghề và đôi bàn tay tài hoa của người thợ Việt Nam".

 

Người Dao Đỏ - Giấy bản nét đẹp của vùng quê

Dân tộc Dao cư trú chủ yếu ở biên giới Việt-Trung, Việt-Lào và ở một số tỉnh trung du và ven biển Bắc bộ Việt Nam. Cụ thể, đa phần tại các tỉnh như Hà Giang, Tuyên Quang, Lào Cai, Yên Bái, Quảng Ninh, Cao Bằng, Bắc Kạn, Lai Châu, Hòa Bình... Ở đây họ có những nét văn hóa riêng, đặc sắc và hấp dẫn. Có một nét văn hóa đáng chú ý của người Dao Đỏ là "Giấy bản" văn hóa đã lâu đời của dân tộc này.

Ai đã từng được nhìn thấy tờ giấy bản chưa? có lẽ người trên vùng Lào Cai sẽ hiểu hơn cả, nhưng nếu bạn muốn biết hãy đến nơi đây để ngắm nhìn và cảm nhận nhé! 

Tác dụng của giấy bản:

Được coi là loại giấy mang nhiều sắc thai tâm linh, bởi chỉ loại giấy này mới được để cúng lễ, nhất là các dịp Tết và đầu năm. Chính vì vậy mà loại giấy này cần được làm cẩn thận và chu đáo chứ không thể như các loại giấy khác


Đây là loại giấy độc đáo do chính bàn tay người Dao đỏ làm ra, có nguồn gốc từ rất lâu đời và công nghệ sản xuất được lưu giữ qua nhiều thế hệ như một nghề truyền thống. 


"Tôi vẫn nhớ ngày còn nhỏ mỗi lần đến Tết là mẹ tôi lại đi mua giấy về dán lên bàn thờ, gấp vàng hương và trang trí quanh nhà theo tục lệ của người dân tộc. Loại giấy đó rất đặc biệt, không trắng như giấy công nghiệp nhưng dai bền và thoang thoảng mùi thơm cây rừng," ông Bàn Văn Thanh, thôn Nậm Tha, xã Chiềng Ken, huyện Văn Bàn, Lào Cai tâm sự.


Không giống như giấy dó của người Kinh, người Dao đỏ ở Văn Bàn làm giấy bản từ những nguyên liệu sẵn có trong tự nhiên. Loại cây được sử dụng để làm giấy nhiều nhất là cây vầu hoặc rơm nếp sau mùa thu hoạch. Dụng cụ cơ bản là một cái khuôn tráng giấy làm bằng vải, có nhiều kích cỡ khác nhau (thường là 60cmx120cm), một nồi nấu chất liệu giấy và một chậu đựng nước pha bột giấy...


 


Khi cây vầu cao chừng 3 mét, người ta chặt về, loại bỏ lá, cành rồi cắt thành từng đoạn ngắn đem luộc mềm. Vầu hoặc rơm đã luộc được ngâm với vôi và tro bếp khoảng mười ngày cho nhuyễn hẳn, rồi dùng cối để giã thành bột, khi đó sẽ được một loại dung dịch sóng sánh màu vàng xanh. Người Dao đỏ lấy dung dịch này tráng thật mỏng trên khuôn vải giống như tráng bánh cuốn, phơi khô rồi bóc ra là được tấm giấy bản đầu tiên. Việc làm giấy chủ yếu do người phụ nữ Dao đảm nhiệm.

Để có những tờ giấy bản vuông vắn, công đoạn cuối cùng là xếp các tấm giấy thành lớp, gấp vào, dùng thanh nứa mảnh rọc theo khổ 10x20cm hoặc 20x30cm, sau đó chạm hoa văn nổi bằng một dụng cụ kim loại.

Mỗi tờ giấy bản cầm lên mỏng tang, sắc vàng, độ xốp cao, dai mịn, soi ra ngoài ánh nắng thấy rõ những sợi tơ và phảng phất hương thơm của cây rừng.

Được làm từ bàn tay khéo léo của người Dao đỏ, theo những bí quyết riêng, giấy bản là loại giấy tuy mỏng, nhưng dai và bền hơn giấy sản xuất công nghiệp. Nếu được bảo quản ở nơi khô ráo, giấy bản có thể để vài chục năm vẫn sử dụng tốt. Bởi thế, loại giấy này phổ biến và được ưa thích không chỉ trong cộng đồng người Dao.


 


Giấy bản thường được sử dụng trong các nghi lễ truyền thống của người Dao đỏ, như lễ Tết, cúng cầu mùa… Mỗi gia đình người Dao có một góc thờ, chỉ dán tờ giấy lên vách phía sau đối diện với cửa chính để đánh dấu.

Cũng giống như người Kinh đốt vàng mã trong ngày lễ, người Dao đỏ cũng đốt giấy bản theo quan niệm tâm linh.

Ngoài ra, giấy bản còn được đóng thành quyển để viết chữ. Trong mỗi gia đình người Dao đỏ ở Văn Bàn nói riêng và Lào Cai nói chung đều lưu giữ một, hai cuốn sách chữ nho viết bằng mực màu trên giấy bản. Trải qua bao thế hệ, có cuốn bìa đã rách nát mà nét chữ vẫn không phai màu mực. Chính sự cẩn trọng, giữ gìn, và lòng thành kính khi sử dụng giấy bản đã cho thấy giá trị tôn nghiêm của loại giấy này trong đời sống văn hóa phong tục của người Dao đỏ.

Nghề làm giấy bản của người Dao ở Lào Cai tuy không phát triển thành một làng nghề truyền thống, nhưng đã lặng lẽ tồn tại như một minh chứng cho bàn tay tài hoa và những giá trị văn hóa lâu đời của dân tộc Dao đỏ ở đây.

Ngày nay, gia đình người Dao đỏ nào ở Lào Cai cũng biết cách làm và tự làm được giấy bản để sử dụng vì sản phẩm giấy đã đi vào đời sống tâm linh, là sự gắn kết giữa người sống với tổ tiên và nhắc nhở con cháu nhớ về cội nguồn. Dây là nét đẹp của người Dao Đỏ.

 

Bình Dương làng nghề truyền thống Sơn Mài

 

Sơn mài được coi là một trong các chất liệu hội họa ở Việt Nam. Đây là sự tìm tòi và phát triển kỹ thuật của nghề sơn (nghề sơn ta) thủ công truyền thống của Việt Nam thành kỹ thuật sơn mài độc đáo có một không hai. Và làng nghề truyền thống là sơn mài Bình Dương.

Mang đậm bản sắc dân tộc, làng nghề truyền thống sơn mài luôn cố gắng giữ gìn bản sắc dân tộc, giúp trong gia đình bạn hấp dẫn hơn và đẹp hơn với những bức tranh sơn mài nghệ thuật.
Bình Dương, trong tiến trình phát triển vùng đất mang đậm nét văn hoá làng nghề thủ công truyền thống. Sơn mài là một trong những làng nghề nổi tiếng, đã định vị trên địa bàn hơn 300 năm. Từ lối chế tác cha truyền con nối, các lớp nghệ nhân luôn dày công gởi cả tâm huyết để dần hoàn thiện thành tác phẩm sơn mài nghệ thuật lừng danh, với vẽ đẹp lộng lẫy và sâu lắng.

Làng Tương Bình Hiệp – chiếc nôi nghề sơn mài Bình Dương Các nghề thủ công truyền thống sơn mài, chạm khắc, đồ mộc đã có từ rất sớm và phát triển mạnh ở đất Thủ – Bình Dương, vùng được định hình và phát triển nghề chủ yếu ở thị xã Thủ Dầu Một (Chánh Nghĩa, Phú Cường, Tương Bình Hiệp, Tân An, Định Hòa). Chiếc nôi nghề sơn mài Bình Dương là làng Tương Bình Hiệp.

Sơn mài Bình Dương nổi tiếng được khách hàng ưa chuộng, bởi từ nguyên liệu gỗ đến khâu cuối cùng của sản phẩm phải trải qua quá trình 25 công đoạn, mỗi công đoạn đòi hỏi một nghệ thuật riêng tỷ mỉ và công phu. Một qui trình sơn mỗi sản phẩm phải mất từ 3 đến 6 tháng mới đảm bảo yêu cầu chất lượng.

 Năm 1975 đến nay, sau nhiều biến đổi, ngành sơn mài ổn định và phát triển. Sơn mài cổ điển vẫn được ưa chuộng, thêm vào đó hàng loạt các mẫu mã hiện đại, phù hợp với yêu cầu cơ chế thị hiếu mới.


 

 


Trải qua nhiều thế hệ, sơn mài trên vùng đất Bình Dương vẫn giữ được nét đẹp truyền thống, đó là sự tinh xảo, nhẹ nhàng thanh thoát, đậm đà tính cách Á đông. Ngày nay, các cơ sở tại làng sơn mài Tương Bình Hiệp có khả năng sản xuất khá đa dạng các sản phẩm sơn mài, từ những bức tranh nghệ thuật đến các loại tủ, bàn ghế… Bên cạnh các loại tranh sơn mài, còn có các sản phẩm sơn mài để sử dụng và trang trí như: bình, lọ, dĩa, vòng tay, hộp… Sản phẩm sơn mài nói chung có rất nhiều phương pháp thể hiện như: sơn mài sơn lộng, sơn mài vẽ mỏng, sơn mài khoét trũng, sơn mài đắp nổi, sơn mài cẩn trứng, sơn mài cẩn xà cừ, cẩn ốc… sự đa dạng về sản phẩm, về sự kết hợp sơn mài với các chất liệu khác như gốm, tre... có nhiều xưởng sản xuất, xuất khẩu hàng sơn mài như các xí nghiệp Thành Lễ, Đồng Tâm, Hùng Hương…


 

 


Với bề dày truyền thống và lịch sử phát triển vùng đất hơn 300 năm, nghề sơn mài trên đất Bình Dương vẫn giữ vững đậm đà bản sắc dân tộc. Ngày nay, sự phát triển về khoa học công nghệ, nghề sơn mài với sự kế thừa truyền thống kết hợp với hiện đại đã góp phần tạo nên tính đa dạng mẫu mã, phong phú về chất liệu… Sơn mài đã và đang là nguồn cảm hứng thẫm mỹ của các thế hệ nghệ nhân tài hoa, là tiếng nói nghệ thuật mang tính nhân bản cho bạn bè trong nước và thế giới hiểu thêm về bản sắc độc đáo của văn hóa dân gian Việt Nam.

Làng nghề sơn mài Tương Bình Hiệp không những là niềm tự hào của bao thế hệ nơi đây, mà còn là một nét văn hóa truyền thống đặc trưng của vùng đất đáng trân trọng. Được sự quan tâm của chính quyền địa phương, các cấp các ngành, cùng với sự đồng lòng của nghệ nhân, người thợ, doanh nghiệp yêu nghề. Ngày 29/8/2006, Hiệp hội Sơn mài – Điêu khắc Bình Dương được thành lập tại Quyết định số: 3838/QĐ-UBND của Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương. Hiệp hội sẽ là cầu nối quan trọng, góp phần gìn giữ và phát huy thế mạnh nghề truyền thống sơn mài ở Bình Dương.

"Danh từ sơn mài (laque) là một danh từ mới đặt sau này để chỉ một kỹ thuật trước kia gọi là Sơn Ta nhưng đã biến hoá hẳn do nghệ thuật mài sơn. Kỹ thuật Sơn Ta cũng tương tự như sơn Tàu, có từ đời nhà Hán. Sử dụng cùng với Sơn Ta một nguyên liệu là sơn sống. Chất sơn sống này, ở nước ta, miền Phú Thọ sản xuất rất nhiều và vẫn bán sang Tàu cùng Nhật. Từ năm 1931 trở về trước, công dụng Sơn Ta cũng như Sơn Tàu ở Tàu và Sơn Nhật ở Nhật là phủ lên đồ vật làm nó tôn vẻ lộng lẫy, lên những vật dùng thường như cái khay, cái tráp, đôi guốc, đồ thờ như hương án dài, bát đĩa, đồ trang trí như câu đối, hoành phi, bình phong... màu sắc đại để có: son, đen, nâu, cánh gián, vàng, bạc theo cổ truyền. Nói rõ ra, Sơn Ta chỉ có công dụng trang trí, địa vị là ở trong trang trí. Mặc dầu ở Nhật, nghệ thuật sơn có tế nhị hơn cả, nhưng chưa một nước nào nghĩ đến tìm tòi, sử dụng nguyên liệu sơn một cách khác cổ truyền, phiêu lưu trong nghệ thuật sơn để tìm một con đường nào tăng phẩm giá mỹ thuật sơn bằng cách phát minh thêm khả năng của nó.

Song, từ 1931 trở đi, nhờ sự tìm tòi thiết tha của một số họa sĩ có tài bỏ sơn dầu để chuyển hẳn về sơn mài, Sơn Ta đã vượt được ra ngoài nơi cầm hãm, ngang nhiên trên đường bao la của hội họa, cứ phương trời xa lạ mà tiến. Từ cái tráp, chiếc guốc, nó vượt lên bức họa lồng khung quý giá, từ một phương tiện phụ thuộc làm tôn vẽ đồ vật, nó trở nên một phương tiện độc đáo diễn đạt nổi tâm hồn người nghệ sĩ, một phương tiện lấn át cả sơn dầu. Quên dĩ vãng Sơn Ta đổi tên nhũn nhặn là Sơn Mài"
 - Tô Ngọc Vân

 

Đậm đà hương vị "Cơm hấp lá sen"

(Mytour.vn) - Món ăn đậm chất làng quê Việt, nhưng chính những điều đó lại làm lên một món ăn ngon ấn tượng, món ăn cần sự công phu trong chế biến, nhưng sẽ chỉ cần những thứ đơn giản như gạo ngon, tôm, hạt sen, cà rốt, lạp xưởng... sẽ đem đến cảm giác thú vị cho người ăn.

Để có một món hấp dẫn và mới lạ thì bạn cần chuẩn bị món cơm này sẽ cần sự công phu và mất nhiều thời gian. 

1. Điều đầu tiên bạn cần chọn như sau:
Gạo dùng để nấu cơm là loại hạt trong, nhỏ, dài, được vo sạch và để ráo nước. Trộn gạo với một ít muối, bột ngọt, sau đó rang sơ gạo trước khi nấu. Hạt sen sau khi lấy hết tim sen, rửa sạch và nấu chín, vớt hạt sen ra để riêng.

2. Giai đoạn chuẩn bị cho món ăn:


Cho nước luộc sen vào nồi gạo đã rang và nấu chín như nấu cơm bình thường. Hạt cơm ngon phải đảm bảo chín đều nhưng hơi ráo, không nhão và không nát. Cơm  nấu chín được xới ra, để nguội và đánh tơi thành từng hạt. Tôm tươi hấp chín, bóc bỏ vỏ, thái hạt lựu. Lạp xưởng, xá xíu, ngó sen, cà rốt... được thái hạt lựu. Cho hỗn hợp đó vào xào chín cùng đậu Hà Lan, nêm gia vị cho vừa ăn. Cho cơm, hạt sen cùng tất cả các nguyên liệu đã chế biến vào mâm hoặc khay lớn trộn đều.

 

 

 

 

3. Cùng vào bếp nhé:


 Sau khi trộn xong, chọn những chiếc lá sen hơi già, có màu xanh thẫm, nguyên vẹn, không bị rách. Lá sen rửa sạch, chần qua nước sôi cho lá hơi héo, lau khô, xếp lá ra mâm. Cho cơm vào giữa lá sen, nâng đều các mép lá và gói lại sao cho vừa đẹp mắt, cho vào xửng hấp chín chừng năm, bảy phút là được. Món ăn có màu sắc hài hòa của nguyên liệu, gia vị đậm đà cùng hương sen thoang thoảng hấp dẫn, đem đến cho người ăn cảm giác ngon và lạ miệng.

(Nguồn:Mytour.vn)

 

Sóc Trăng: Phát triển sản phẩm du lịch làng nghề

 

Sóc Trăng là một tỉnh ven biển thuộc đồng bằng sông Cửu Long thuộc Việt Nam, nằm ở cửa Nam sông Hậu, cách thành phố Hồ Chí Minh khoảng 231 km, cách Cần Thơ 62 km. Tỉnh Sóc Trăng nằm ở hạ nguồn của sông Hậu, là nơi sông Hậu đổ vào biển Đông tại hai cửa Định An và Trần Đề, với dân số và diện tích điều đứng thứ 6 trong khu vực Đồng bằng sông Cửu Long.

Ai mỗi lần đến với Sóc Trăng hẳn cũng sẽ cảm nhận được sự yêu mến, gắn bó và lưu luyến bởi vùng đất trừu phú, giàu tình người đang ngày càng phát triển, đậm đà không khí vui tươi và sự sung túc. Sóc Trăng hiền hoà, bao dung dang cánh tay rộng mở chở che cho cả 03 dân tộc Kinh, Khmer, Hoa cùng sinh sống, thế nên Sóc Trăng có được những nét văn hóa độc đáo, riêng biệt và những sản vật làm say đắm lòng người.

Cứ mỗi dịp về Sóc Trăng du khách lại được hòa mình vào không khí hào hứng, sôi nổi của Hội đua ghe Ngo truyền thống của đồng bào Khmer hay tĩnh lặng nhìn ngắm những ngôi chùa cổ kính nổi tiếng như: Chùa Dơi, Chùa Đất Sét, Chùa Sà Lôn…

 

 


Sau chuyến tham quan, du khách có thể tự thưởng cho mình một tô bún nước lèo đậm đà, ăn một lần là vẫn còn dư âm mãi. Rồi trong hành trang trở về, du khách không thể nào quên mang theo một chút gì gọi là hương vị của Sóc Trăng để làm quà cho người thân, bạn bè. Để đáp ứng nhu cầu thiết thực của du khách gần xa, tỉnh Sóc Trăng cũng đang đẩy mạnh phát triển sản phẩm du lịch từ các làng nghề truyền thống. Đây được xem là một vấn đề đang được đầu tư khai thác nhằm mang lại hiệu quả kinh tế cho các địa phương, góp phần vào việc gìn giữ, bảo tồn và phát huy giá trị cao đẹp của từng sản phẩm. Theo quyết định số 71 của UBND tỉnh Sóc Trăng, ngày 29/02/2008, toàn tỉnh có 12 làng nghề truyền thống, trong đó có 03 làng nghề, sản phẩm được đưa vào phục vụ phát triển du lịch như Làng nghề Bánh Pía - Lạp Xưởng, Làng nghề Đan đát, Làng nghề Cốm dẹp. Mỗi làng nghề truyền thống đều có giá trị riêng với những sản phẩm đặc trưng tạo sự cuốn hút cho du khách gần xa.

Nói tới đặc sản Bánh Pía – Lạp Xưởng phía Nam là nói tới Sóc Trăng, và ở Sóc Trăng thì Làng nghề Bánh Pía, Lạp Xưởng Vũng Thơm tại xã Phú Tân, huyện Châu Thành được xem là chiếc nôi nổi tiếng lâu đời về nghề này. Bánh Pía là loại bánh dân dã rất độc đáo, với lớp bột trắng tinh mỏng nhiều lớp như giấy bao bọc phần nhân bánh ngọt thanh với hương vị sầu riêng thơm lừng, nhâm nhi cùng ly trà nóng thì thật tuyệt vời. Ngày nay, nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của du khách, bánh còn có nhân khoai môn, đậu xanh, bánh pía thập cẩm nhân thịt heo, bánh chay, bánh pía ít đường,… với nhiều mẫu mã đẹp và bắt mắt. Nếu bánh Pía là món ăn có thể dùng được ngay khi mua về, thì lạp xưởng lại là món ăn cần được chế biến sơ trước khi dùng. 


Chỉ cần chiên, nướng, hấp rồi thái mỏng là đã có một món lạp xưởng màu nâu đỏ thơm ngon có thể ăn kèm với cơm trắng. Để cho làng nghề bánh Pía vươn xa thế giới cũng như tạo điều kiện cho thương hiệu Bánh Pía – Lạp xưởng ngày càng có uy tín, câu lạc bộ Bánh Pía – Lạp xưởng Sóc Trăng được thành lập hiện có khoảng 30 thành viên, hầu hết đã qua đào tạo lớp quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn HACCP do Sở Công thương tỉnh tổ chức, giúp cho các thành viên nhận thức được tầm quan trọng trong việc quản lý chất lượng sản phẩm giữ uy tín và thương hiệu cho tỉnh. Đến nay, tỉnh đã có nhiều thương hiệu nổi tiếng gần xa chuyên sản xuất bánh Pía – lạp xưởng như Tân Huê Viên, Mỹ Trân, Quảng Trân, Công Lập Thành, Tân Hưng,…..trong đó, Tân Huê Viên và Công Lập Thành là 02 doanh nghiệp được công nhận là điểm bán hàng đạt chuẩn phục vụ khách du lịch. Đặc biệt, Công ty TNHH Chế biến Thực phẩm Bánh pía – Lạp xưởng Tân Huê Viên đã sử dụng máy móc và dây chuyền hiện đại để sản xuất sản phẩm. Khi đến cơ sở này, du khách có thể được hướng dẫn tham quan xưởng sản xuất cũng như dùng thử hương vị của các loại bánh. Sản phẩm bánh Pía – Lạp xưởng của Sóc Trăng không chỉ nổi tiếng trong nước mà đang vươn xa trên thị trường thế giới như Mỹ, Trung Quốc, Đài Loan, Campuchia…         

Tiếp theo phải kể đến là làng nghề đan đát ấp Phước Quới, xã Phú Tân huyện Châu Thành, cách thành phố Sóc Trăng hơn 10km. Đến đây, du khách có thể tham quan cơ sở đan đát tre nứa để tìm hiểu thêm về nghệ thuật đan đát của bà con Khmer. Với đôi bàn tay khéo léo, tinh tế của người dân nơi đây đã tạo ra những sản phẩm rất phong phú và đa dạng chủng loại như cái rổ, thúng, xà ngom, bội nhốt gà, xà neng, cần xé nhỏ,… và nhiều mặt hàng thủ công mỹ nghệ khác như chiếc ghe ngo nhỏ, khay đựng trầu, rổ nhỏ… Bằng nguyên liệu chủ yếu là tre, trúc, từ bàn tay con người đã tạo nên những sản phẩm ngộ nghĩnh vừa sử dụng trong sinh hoạt hằng ngày đến các vật trang trí làm quà cho du khách. Người dân ấp Phước Qưới luôn không ngừng học tập nâng cao tay nghề và sáng tạo nhiều mẫu mã đẹp mới lạ vừa phát huy nghề truyền thống của ông cha, vừa góp phần phục vụ khách hàng, góp thêm thu nhập cho gia đình. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng đầu tư kinh phí xây dựng mở rộng cơ sở, có phòng thực hành, nhà kho, nhà trưng bày, cổng rào, đồng thời thành lập hợp tác xã (HTX) làng nghề  vào năm 2006 với 126 hộ thành viên đều là người Khmer, vốn gắn bó lâu đời với nghề đan đát. Hợp tác xã đang phát huy hiệu quả cao giúp làng nghề Phú Tân cất cánh. Hiện nay, làng nghề Phú Tân, huyện Châu Thành, tỉnh Sóc Trăng đang xây dựng kế hoạch phát triển các sản phẩm mỹ nghệ của làng phục vụ du khách về tham quan, mua hàng lưu niệm.

Từ xưa nghề giã cốm dẹp ở Sóc Trăng đã là một nghề truyền thống của nhiều làng có người Khmer, nhất là làng nghề Cốm dẹp xã Phú Tân, huyện Châu Thành gần như cung cấp quanh năm cho khách hàng loại thức ăn đặc trưng này. Cốm dẹp được giã từ loại lúa nếp vừa đỏ đuôi. Cốm mới giã khá giòn và dẻo ăn rất thơm mùi nếp mới. Nhưng muốn ăn ngon hơn người ta phải trộn cốm dẹp với dừa rám, ít nước dừa và đường cát trắng. Trung bình khoảng 1kg cốm dẹp thì dùng một trái dừa rám đã nạo, nước dừa và ½ kg đường. Dùng một cái thau rộng bỏ cốm dẹp, đường và rưới nước dừa vào để khoảng 30 phút cho nước dừa và đường thấm đều vào cốm hơi mềm là dùng được. Khi ăn bỏ thêm một ít dừa nạo, đậu phộng rang giã nhuyễn hoặc mè sẽ tăng thêm phần hấp dẫn và độ béo.

Ngày nay, dù đã qua nhiều biến động và đổi thay kinh tế, nhưng vẫn còn nhiều làng nghề truyền thống vẫn đang tồn tại và phát triển trở thành sản phẩm du lịch cho du khách mỗi khi về vùng đất Sóc Trăng. Để phát huy hơn nữa những tiềm năng vốn có của từng địa phương, tỉnh đã quy hoạch và định hướng phát triển làng nghề truyền thống theo cơ chế thị trường, bảo đảm phát triển bền vững, giữ gìn tốt vệ sinh môi trường sinh thái, phát triển làng nghề gắn với du lịch, văn hóa địa phương.

Trong quá trình hội nhập và phát triển như hiện nay, làng nghề truyền thống đã và đang được chú trọng đầu tư nhằm giữ gìn và bảo tồn giá trị văn hóa của mỗi dân tộc. Phát triển du lịch phải gắn với việc phát triển sản phẩm của các làng nghề truyền thống để có những sản phẩm hấp dẫn, đặc trưng mà mỗi khi du khách đến Sóc Trăng sẽ phải tìm mua về làm quà sau mỗi chuyến đi

 

Sức hấp dấn món bánh giò Hà Nội

(Mytour.vn) - Bánh giò là một loại bánh được làm bằng bột tẻ lọc, thịt nạc vai dùng chế biến nhân có kèm mộc nhĩ, hành khô, hạt tiêu, nước mắm, muối... Bánh giò có hình dài nhô cao như hình bàn tay úp khum khum với các ngón tay sát nhau, gói bằng lá chuối. Bánh này được luộc từ 45 đến 60 phút.

Bánh thường được xuất hiện khá nhiều ở Hà Nội, nhất là vào các buổi sáng, những hàng quán bánh bánh giò khá nhiều, bánh giò được làm bằng gạo tẻ nên khi ăn sẽ không có cảm giác bị chán ngấy, bởi những hương vị đặc trưng và mùi thơm khi bánh còn nóng, khi chiếc bánh còn nóng mùi bánh lan toả ra xung quanh sẽ làm cho những người xung quanh sẽ không thể kiềm chế được bởi mùi thơm của nó.

Bánh giò là loại bánh truyền thống của người Hà Nội, là thứ bánh ăn chơi, được làm bằng bột tẻ và thường ăn khi còn nóng. Không như các loại bánh khác, bánh giò chỉ có hình dạng nhất định, đó là bánh có hình chóp và nhất thiết chỉ được gói bằng lá chuối, nguyên liệu đơn giản với bột gạo, thịt lợn và mộc nhĩ (nấm mèo).

 

 

 

Gạo làm bánh là gạo tẻ không khô, không dẻo, được ngâm rồi đem đi xay để làm vỏ bánh. Với bánh giò thì công đoạn khuấy bột và đánh bột là rất quan trọng, ảnh hưởng đến chất lượng của chiếc bánh. Thường mỗi người làm bánh sẽ có một bí quyết khác nhau, nhưng như thế nào đi nữa thì cũng có thể nhận thấy rằng để có được một chiếc bánh giò thơm ngon là không hề đơn giản.
Bánh được gói ngay khi bột còn nóng, như vậy lúc hấp lên, bánh sẽ mềm, thơm và chín đều. Ngoài gạo để làm bánh thì nhân bánh cũng rất quan trọng, phải chọn thịt nạc vai, có như vậy, bánh mới tỏa ra mùi thơm của thịt, ăn vào có vị ngọt của nạc và một ít mộc nhĩ hành khô băm nhỏ, hạt tiêu… và nêm gia vị vừa ăn. Tất cả các nguyên liệu đó đều được làm chín tái trước khi gói, tránh tình trạng nhân bánh còn sống khi hấp.
Muốn có bánh ngon người làm bánh cũng khá là mất nhiều công đoạn và kiểm gạo, cũng như các loại nhân bên trong đều phải kỹ lưỡng, chiếc lá được gói bánh cũng cần phải tuyện chọn, nếu không sẽ dễ bị rách và sẽ làm chiếc bánh không còn ngon.
Lá gói là lá chuối tây, không phải lá chuối hột hay chuối tiêu, chọn những chiếc lá còn tươi, rửa thật sạch và lau khô, sau đó đổ một ít bột bánh lên lá, tiếp đến nhân và thêm một lớp bột bánh phía trên cùng nữa. Cách gói này cũng khá giống như các cách gói của các loại bánh khác, khi gói phải thật khéo léo, để cho ra đời những chiếc bánh bằng nhau tăm tắp, không cần buộc dây mà vỏ không bị xổ ra cũng như không bị vô nước khi luộc.
Để bánh chín mềm, thơm, có vị trong của gạo tẻ thì khi xếp bánh vào nồi, phải đổ nước xấp mặt bánh, lửa cháy đều, không to quá, mà cũng không nhỏ quá. Khi nào thấy nồi bánh có mùi thơm tỏa ra, lá chuối đã ngả màu xanh sẫm là bánh đã chín.

 

 

 


Chiếc bánh giò lúc nào cũng nóng hôi hổi. Vỏ bánh mềm, dẻo và không bị nát, đặc biệt là thơm dịu mùi bột gạo đầy cuốn hút. Nhân bánh tuy ít nhưng cũng đủ để chiếc bánh đậm đà hơn hẳn, cái hay của bánh giò so với các loại bánh khác là không cần gia vị như nước mắm, ớt… vì bản thân của bánh đã mang đủ gia vị cho nó rồi. Chiếc bánh giò bé xinh xinh, nhưng ăn xong một chiếc thôi cũng đủ để bạn thấy ấm bụng, ngon miệng, ăn một chiếc lại muốn ăn thêm chiếc nữa.

Không như ở Hà Nội thường có các hàng bánh giò để người ăn có thể ngồi nhâm nhi thưởng thức, bánh giò ở Sài Gòn không có một hàng quán nào hết, nó theo chân những người bán dạo đi khắp cùng các con hẻm hay trong các xóm trọ nghèo. Khách hàng thường là sinh viên, công nhân đi làm về khuya, cũng có khi là một gia đình gốc Bắc nào đó thèm chút hương vị quê nhà.

Thật thú vị khi đưa từng miếng bánh lên miệng ăn và cảm nhận mùi vị đặc trưng của bánh. Chỉ ăn một lần mà mùi vị đó sẽ còn in sâu trong trí nhớ của t
hực khách.

 

Nguồn:Mytour.vn

 

Làng nghề gốm sứ Thanh Hà

Làng gốm Thanh Hà với quá trình phát triển 500 năm, thế mà có lúc người ta đã quên mất rằng Thanh Hà có nghề làm gốm rất độc đáo. Thế nhưng với tâm huyết của những người cao niên trong làng, gốm Thanh Hà lại dần được phục hồi. Đến làng gốm Thanh Hà bạn sẽ thoả sức ngắm nhìn những hình ảnh của gốm sứ.

 Địa điểm:
- Làng gốm Thanh Hà thuộc phường Thanh Hà, thành phố Hội An, Quảng Nam.
- Làng gốm Thanh Hà nằm ngay bên bờ sông Thu Bồn, cách phố cổ Hội An chừng 3 km về hướng Tây.
- Từ đô thị cổ Hội An đi về phía Vĩnh Điện theo đường Duy Tân sẽ gặp bảng chỉ đường đến làng gốm.

 

Nằm cách Hội An 3 Km về hướng Tây, vào thế kỷ 16, 17, Thanh Hà là một ngôi làng rất thịnh đạt, nổi tiếng về các mặt hàng gốm, đất nung được trao đổi, bán buôn khắp các tỉnh miền Trung Việt Nam. Nghề gốm của làng có nguồn gốc xuất xứ từ Thanh Hóa, sau khi đã tiếp thu được một số vốn luyến kỹ thuật thì làng đã hình thành một làng gốm như ngày nay.

Lịch sử hình thành và phát triển:

 

 


Ngược về lịch sử, cư dân Thanh Hà có nguồn gốc chủ yếu ở vùng Thanh Hóa, Nam Định, Hải Dương vào định cư từ khoảng cuối thế kỉ 15. Trong buổi sơ khai, khi đồ dùng của đại bộ phận dân cư chủ yếu là đồ gốm sứ, đất nung thì cư dân ở đây đã tiếp tục truyền thống của cha ông, khai thác địa thế thuận lợi của vùng đất mới để phát triển nghề gốm. Theo cách nhớ của người làng Thanh Hà thì năm 1516, nghề gốm bắt đầu sản xuất tại làng Thanh Chiêm ( nay là khối phố 6 phường Thanh Hà ), sau đó do không hợp phong thủy nên dời lên Nam Diêu ( tức khối phố 5 phường Thanh Hà ), Nam Diêu có nghĩa là lò gốm phía Nam.


 


Hiện nay tại Nam Diêu còn miếu Tổ nghề của làng. Hằng năm, người dân làng gốm tổ chức lễ tế Xuân vào ngày mồng 10 tháng Giêng nhằm cúng tổ tiên, mong cho chư thần, tổ nghề và các bậc tiền nhân ban cho năm mới bình an, làng nghề phát triển.


Nhiều thế kỉ qua, nghề làm gốm và gạch ngói ở Thanh Hà nổi tiếng không chỉ ở xứ Quảng mà cả nước và nước ngoài.Trong sách Phủ Biên Tạp Lục học giả Lê Quí Đôn có đề cập đến gốm ” Cochi”, ” Cauchi” ( Giao Chỉ) mà người nước ngoài ưa chuộng có cả gốm Thanh Hà xứ Quảng.Và  kể từ thế kỉ 17 trở lui, do việc tái tạo thành phố Hội An mà sinh ra ngành gạch ngói rất thịnh hành ở Thanh Hà.


Không chỉ phục vụ cho nhu cầu địa phương các vùng lân cận mà còn trở thành một mặt hàng trao đổi mua bán cho cả xứ Đàng Trong. Khi nhà Nguyễn chọn Phú Xuân làm kinh đô, nhiều nghệ nhân được gọi ra Huế xung vào đội thợ xây dựng cố cung. Có người được vua phong đến hàm Bát phẩm, đó là những Chánh Ca, Bát Luyện.


 


Thuở trước làng gốm Thanh Hà đông đúc với 30 bàn xoay, trăm lò nung nghi ngút khói, cả ngàn thợ thầy làm việc tất bật mỗi năm 6 tháng nắng ráo. Hiện nay cả làng chỉ còn 8 lò gốm với khoảng 35 lao động trong đó chỉ có mươi người thợ giỏi đó là: Bùi Liêu, Ban Sáu, Nguyễn Vinh, Nguyễn Cử, Nguyễn Sao, Lê Phát…Riêng nghề sản xuất gạch ngói có 74 hộ với 455 lao động tập trung ở khối phố 3,4,5,6  phường Thanh Hà.

Sản phẩm:
Làng gốm với những sản phẩm như: lu, chum, vại bình hoa, chậu cảnh nhằm phục vụ cho đời sống người dân. Với những nguyên liệu chính là đất sét và nhờ vào đôi bàn tay chế tác khéo léo của các nghệ nhân, các sản phẩm của làng gốm được mang nhiều hình dáng màu sắc và độ bền riêng biệt. Chính những người thợ gốm Thanh Hà đã làm nên và cung cấp gạch, ngói lợp, ngói lát nền cho các ngôi nhà cổ ở Hội An và các khu vực chung quanh.


 


Hiện nay, người dân làng gốm Thanh Hà đang làm đúng những công việc và theo đúng cách cha ông họ đã làm trong những thế kỷ trước. Trong đôi bàn tay khéo léo và điêu luyện của họ, những chiếc lọ hoa xinh xắn, những bình trà, bình rượu, những chiếc ấm, bồng binh, những chum, lu, hũ, vại và cả những con vật thân thương như trâu, Bò, mèo, lợn… cứ lần lượt ra đời.


Ngoài việc phát triển nghề dựa vào du lịch, những nghệ nhân làng gốm Thanh Hà vẫn muốn tìm hướng đi vững chắc cho sản phẩm của mình như sản xuất các sản phẩm gốm mỹ thuật tinh xảo dành cho xuất khẩu và phục vụ công tác trùng tu, xây dựng các công trình kiến trúc cổ tại Hội An. Ngày nay, những ngôi nhà cổ ở Hội An đang cần đến bàn tay khéo léo và khối óc thông minh, sáng tạo của những người thợ gốm Thanh Hà. Họ chính là đối tác duy nhất có thể cung cấp những viên gạch xây, những viên ngói lợp đúng tiêu chuẩn, hợp quy cách và chất lượng cao phục vụ công tác trùng tu, bảo tồn cả Hội An, Di sản Văn hóa Thế giới.

 

Thú vị món bánh gối ngày se lạnh

(Mytour.vn) - Vào những hôm trời trở gió được thưởng thức món bánh gối nóng hổi quả là rất tuyệt, món ăn mang đậm chất của ngày se lạnh, được cùng bạn bè đi chơi rồi cùng ghé qua hàng bánh gối sẽ giúp bạn thêm ấm lòng và ấn tượng không thể quên.

Có lẽ chẳng mấy ai, nhất là người Hà Nội, là không biết đến bánh gối, thứ bánh đường phố rất ngon mà dân dã này. Ở Hà Nội, nổi tiếng từ xưa thì có bánh gối Lý Quốc Sư là ngon nhất.Bánh gối là thứ quà không thể thiếu của những tín đồ ăn vặt, góp phần làm nên thương hiệu “thiên đường ẩm thực vỉa hè” của  Nội.

  

 


Khi cái rét Nàng Bân se se lạnh, mưa lất phất, hàng bánh gối nép bên góc phố nhỏ thật dễ dàng níu bước chân bạn, dù đã quá bữa hay gần khuya. Hàng chưa đông, nghe rõ tiếng dầu sôi lách tách, hít hà mùi thơm từ chỗ người bán hàng đưa qua thơm nức mũi. 
 Bánh chưa được đưa ra, chỉ mới ngắm đĩa rau sống xanh ngắt, bát nước chấm có đu đủ xanh, su hào, cà rốt từng miếng vuông vức, hòa thêm màu đỏ của tương ớt, bạn đã thấy “ứa nước miếng”.

Cắn một miếng bánh vỏ giòn rụm, mỏng vừa đủ, thấy miến dai dai, mộc nhĩ giòn giòn, cà rốt rau giá hăng hăng, nấm hương thơm bùi, trứng cút cùng thịt băm ngầy ngậy, thấm đẫm trong thứ nước mắm chua cay mặn ngọt thật đúng vị.

 

 

 


Tuyệt nhất là tất cả đều nóng hôi hổi, vừa thổi vừa ăn, vừa ăn lại vừa xuýt xoa. Ăn một chiếc vẫn thấy chưa đã, ăn nhiều lại dễ ngấy, bánh gối có lẽ là thứ quà chỉ nên ăn “thòm thèm”. 
 Bánh gối không quá khó để tự làm ở nhà, nhưng có lẽ người ta thích được ra đường, ngồi ăn cùng nhau và tán đủ mọi chuyện hơn. Lý Quốc Sư, Lê Đại Hành, Lương Văn Can... đều là những con phố gắn với “thương hiệu” bánh gối tiếng tăm.

Ngoài bánh gối, bạn đừng quên chọn thêm bánh tôm, bánh rán mặn, ngọt hay nem cua bể cho tròn vị từ ẩm thực đường phố Hà Nội.Thật thú vị và hấp dẫn với bánh gối. Nước chấm cũng là một trong những yếu tố quyết định vị ngon, thơm của nó.

 

(Nguồn: Mytour.vn)

 

Đã từng có thời Hà Nội có Hàng Khảm

 

Theo những nghiên cứu và sử sách để lại thì được biết ngày xưa Hà Nội có tên phố là phố Hàng Khảm. Theo một công trình nghiên cứu của Giám đốc Sở Lưu trữ và Thư viện Đông Dương André Masson, vào khoảng năm 1820, Hà Nội đã có tên phố Hàng Khảm (Rue des Incrusteurs), tại đó có nhiều nhà vừa sản xuất vừa bán hàng khảm xà cừ, khảm trai…

Khu phố cổ Hà Nội là tên gọi thông thường của một khu vực đô thị có từ lâu đời của Hà Nội nằm ở ngoài hoàng thành Thăng Long. Khu đô thị này tập trung dân cư hoạt động tiểu thủ công nghiệp và buôn bán giao thương, hình thành lên những phố nghề đặc trưng, mang những nét truyền thống riêng biệt của cư dân thành thị, kinh đô. Ngày nay khu phố cổ Hà Nội là điểm đến hấp dẫn cho những ai muốn tìm hiểu về Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội.
Đầu năm 1885, phố Hàng Khảm trở thành một phố được trải đá dăm khá tốt, rộng từ 16 mét đến 18 mét, các cửa hàng hầu như của người châu Âu. 

Từ khi thực dân Pháp đắp lại con đường nối từ Đồn Thủy (cửa khu Nhượng địa) tới Cửa Nam thành cổ, thành một con đường rải đá, đổ nhựa, dài chừng 1,5km, và họ gọi đường này là phố Hàng Khảm. Nghĩa là, phố Hàng Khảm khi ấy có chiều dài bao gồm phố Tràng Tiền, phố Hàng Khay và phố Tràng Thi ngày nay. Theo công trình nghiên cứu của Giám đốc Sở Lưu trữ và Thư viện Đông Dương André Masson, vào khoảng năm 1820, Hà Nội đã có tên phố Hàng Khảm (Rue des Incrusteurs). Họ đặt tên phố như vậy bởi quãng từ gần trường đúc tiền (thuộc phố Tràng Tiền ngày nay) đến giáp trường thi Hương của Hà Nội (nay thuộc phố Tràng Thi) có nhiều nhà vừa sản xuất vừa bán hàng khảm xà cừ, khảm trai như sập gụ, tủ chè, bàn ghế, tráp, cơi trầu, khay trà... Tuy nhiên, các hàng khảm đều nằm chủ yếu ở đoạn mé nam hồ Hoàn Kiếm.


 


Lùi ngược vài thế kỷ thì thấy, trên đất Thăng Long đã có nhiều thợ thủ công khéo tay; lại có những thợ thủ công gốc Nam Định lên Kinh kỳ lập nghiệp trải qua nhiều đời; đặc biệt, có những thợ thủ công mỹ nghệ rất giỏi nghề khảm trai gốc làng Chuyên Mỹ, Phú Xuyên, trấn Sơn Nam, lên hành nghề ở Thăng Long, rồi định cư ở đất này. Những thợ khảm trai và xà cừ gốc làng Chuyên Mỹ (tên Nôm là làng Chuôn) lên Thăng Long, sống tập trung tại làng Cựu Lâu và họ đã lập tại đây đền thờ Nguyễn Kim - Tổ nghề khảm trai Chuyên Mỹ. Làng Cựu Lâu ở vị trí thuộc khu vực phố Tràng Tiền, Hàng Khay ngày nay. Trải nhiều thời gian hành nghề trên đất Thăng Long - Hà Nội, đến thế kỷ XIX, kỹ nghệ chạm khảm có bước phát triển mạnh khi người Pháp đặt chân tới đất này. Các thợ thủ công đã có sự cạnh tranh khi nền kinh tế hàng hóa đã hình thành tại Hà Nội, khiến nhịp độ phát triển của nghề này càng nhanh. Và tất yếu, một phố nghề chính thức được ra đời, đó là phố Hàng Khảm.

Thời mới lập phố Hàng Khảm, đầu phố là Đồn Thủy, một đồn binh lớn, cuối phố, chỗ Cửa Nam thành Hà Nội, cũng có một trại lính Pháp, chỉ một quãng (tương đương Tràng Tiền - Hàng Khay ngày nay) là có nhà ở và cửa hiệu. Quãng phố này có một cổng lớn mở từ làng Cựu Lâu ra, nên gọi là cổng Cựu Lâu. Cổng này có hai trụ xây khá lớn, trên mỗi trụ có một con sư tử đá, tạo tác đơn giản nhưng oai nghiêm. Phố Hàng Khảm lúc ban đầu như A.Masson mô tả là “một con đường rộng chưa tới 3m đầy những hố nước tù đọng”. Và cũng theo A. Masson, chỉ một năm sau đã trở thành “một con đường rất rộng, chỉ còn thiếu những ngôi nhà kiểu châu Âu. Hai bên phố là những ngôi nhà lá. Hai, ba cửa hiệu của người Tàu, rất sạch và lịch sự, nằm đầu dãy các cửa hàng...”. 


Chính thời gian mở rộng đường phố đã phải phá bỏ cổng Cựu Lâu. Năm 1885, Đốc lý Hà Nội là Halais cho lập quy hoạch vùng quanh Hồ Gươm với một tiến trình là đến hết năm 1886 phải dỡ tất cả nhà lá và làm thay vào đó những ngôi nhà xây gạch lợp ngói. Có một dấu vết khá thú vị còn sót lại đến đầu thế kỷ XXI là trên “trán” ngôi nhà số 3 Hàng Khay vẫn còn dòng chữ đắp nổi năm xây nhà - 1886. Tuy nhiên, vào chính năm 1886, Tổng trú sứ Paul Bert qua đời, chính quyền thực dân cho cắt một đoạn phố Hàng Khảm, từ cửa ô Tây Long (khu vực Nhà hát Lớn ngày nay) đến ngã tư Hàng Giò, Hàng Thêu (ngã tư Bà Triệu, Lê Thái Tổ ngày nay), đặt tên là phố Paul Bert. Năm 1900, trên tạp chí Revue Indochinoise, ông Dumoutier, một học giả người Pháp, đã mô tả: “Mặt phố Paul Bert đoạn áp hồ (Gươm) toàn là nhà các thợ khảm. Những ngôi nhà này hẹp và thấp, xây bằng gạch, lợp ngói. Mặt trước nhà nào cũng có mái che lợp lá, gian giữa trông ra hồ...”.


 


Có một điều rất lạ là, khi chính quyền thực dân đặt tên phố Paul Bert năm 1886, nhiều người dân Hà Nội đã gọi đoạn trên phố, nơi vốn có trường đúc tiền, là Tràng Tiền, đoạn tiếp đó là Hàng Khay. Và, phần còn lại của phố Hàng Khảm nhưng không có nhà nào làm và bán đồ khảm trai, xà cừ, thì người ta cứ gọi là Trường Thi vì đây vốn là khu vực tổ chức thi Hương ngày xưa, ít lâu sau thì gọi là phố Tràng Thi. Và dần dần tên phố Hàng Khảm cũng lu mờ trong đời sống. Cho đến năm 1945, Tràng Tiền, Hàng Khay, Tràng Thi trở thành tên chính thức của ba phố ấy, và phố Hàng Khảm lùi sâu vào ký ức của Thăng Long - Hà Nội...